NS Minh Tiến: Lắm truân chuyên đời nghệ sĩ
TUỔI THƠ MANG NGHIỆP DĨ
Minh Tiến sinh ra ở vùng quê nồi tiếng có câu hò Đồng Tháp và đặc sản nem Lai Vung, trong một gia đình có truyền thống cầm ca (cha làm quản lý gánh hát Tỷ Phượng, chị là NS Phượng Mai, em gái là NS Phượng Hằng). Lúc 2-3 tuổi Minh Tiến được cha mẹ cho theo gánh hát và khi anh 5-6 tuổi, được thân phụ nhờ thầy tuồng tập cho hát. Vốn thông minh lại là ''con nhà nòi'', hàng đêm đứng bên cánh gà sân khấu xem hát nên Minh Tiến thuộc làu hết các thể điệu. Ban ngày Minh Tiến tự ca diễn lại những vai mà đêm đã xem nên làn hơi chất giọng và nhịp điệu của anh đã hình thành từ lúc ấy.
Phát hiện điều này, ba của anh đã mời thầy tuồng dựng vở “Phạm Công – Cúc Hoa” để anh vào vai kép con là Tấn Lực, lúc anh lên 6 tuổi. Nhưng trong vở còn có vai Nghi Xuân mà trong gánh thì không có đào con (lúc đó NS Phượng Mai đã lớn hát đào thương, NS Phượng Hằng còn quá nhỏ chưa biết hát), thế là thầy tuồng phải “sáng chế” ra vai Nghi Xuân không xuất hiện (vì đi chơi), chỉ có một mình Tấn Lực bị mụ Tào Thị đuổi đi lang thang tìm về quê ngoại. Đó cũng là vai đầu đời trong nghề hát của NS Minh Tiến, ở gánh Tinh Hoa của bầu Mười Cơ. Mỗi bến chỉ hát một suất “Phạm Công - Cúc Hoa” nên thời gian còn lại Minh Tiến học chữ (cha rước thầy dạy chị em Minh Tiến tại gánh hát). Vai Tấn Lực của Minh Tiến hát khá lâu, gánh lưu diễn khắp nơi và thường nhất là ở khu vực miền Trung. Đến năm 12 tuổi vẫn chưa có vai mới nên ngoài việc học chữ anh còn kiêm thêm công việc... “cho vay tiền góp” trong gánh hát. Cứ mỗi buổi sáng hoặc lúc mưa không hát được, trong gánh hát ai cần tiền thì Minh Tiến cho “tạm ứng”, khi hát được, vãn hát bầu phát lương thì Minh Tiến thu nợ với lãi suất vừa phải.
CON ĐƯỜNG DANH VỌNG
Bước khởi đầu của NS Minh Tiến khá nhiều thuận lợi, vì ba của anh vốn là em của bầu chủ nên được giao làm quản lý gánh hát. Sau năm 1975, các gánh hát được đổi tên là đoàn Cải lương thì vào năm sau đó, Minh Tiến cũng bước lên hàng kép chánh. Là một trong những kép chánh có nghề và trẻ tuổi nhất, lại nổi lên trong giai đoạn hoàng kim mà Cải lương được tôn vinh là “Đế vương”, còn đào kép là “Những ông hoàng bà chúa”... nên tên tuổi Minh Tiến nhanh chóng được khán giả đón nhận nồng nhiệt, khi thấy đoàn hát treo băng-rôn tên anh là khán giả nôn nao mua vé. Bảng hiệu “Tinh Hoa” ăn khách khá lâu trong giai đoạn này (1976- 1982), và kép trẻ Minh Tiến đi hát bằng xe hơi cũng là một “hiện tượng” không phải ai cũng có được. Nếu như mỗi đoàn chỉ có một hoặc hai “sao”, thì lúc này Minh Tiến chính là “sao” của đoàn cải lương Tinh Hoa.
Không chỉ có chất giọng khỏe trẻ, nét ca diễn thanh xuân mà Minh Tiến còn tích lũy được “vốn nghề” là bộ nhịp chắc nịch làm nền tảng nên khi ca diễn luyến láy, lạng lách rất bản lĩnh không sợ bị lạc hơi chênh nhịp, cộng thêm làn hơi có độ ngân khá dài. Đây cũng là khoảng thời gian mà phong cách ca hơi dài, luyến láy, lạng lách điệu nghệ được đa số khán giả yêu thích. Vì vậy Minh Tiến đã chiếm được cảm tình và tạo ấn tượng cho nhiều khán giả qua phong cách ca ngâm đó, mà nhiều người gọi là cái “e” của NS Thanh Tuấn. Anh hát chánh cùng các cô đào trẻ: Trang Kim Nguyệt, Phượng Mai, Phượng Linh, Hồng Nhung, Hạnh Nga, Phượng Nhung qua những vai ăn khách mà khán giả tuổi trung niên hiện giờ còn nhớ như: Thái Kim Dung trong “Ngai vàng và nữ tướng”, Phạm Công trong vở cùng tên (được đài TH HCM thu phát hình), thầy giáo Hoàng trong “Lá sầu riêng”...
“SAO” VỀ THÀNH PHỐ
Cuối năm 1982, đang trong cái đà là ngôi sao mới nổi, Minh Tiến về thành phố hát chánh với Phượng Nhung ớ đoàn Phước Chung. Trên sân khấu này, anh để lại hai vai khá ăn khách là Châu Tuấn trong “Thoại Khanh Châu Tuấn” và Mạnh Phương trong “Vòng cưới anh trao”. Cuối năm 1983, đoàn Tiếng hát Tây Ninh mời Minh Tiến về hát chánh thì có thể nói tên tuổi anh ăn khách nhất ở Tây Ninh, qua nhiều vai diễn mùi, tính cách, hùng, sang trọng... như: Khóa Hồng trong “Người đẹp hồ Tây”, Trăng Y Miên trong “Khi rừng thu thay lá”, Hà Mẫn Xuyên trong “Tình ca biên giới”, Vua Rim trong “Nàng Xê Đa”. Đặc biệt là với vai Va Xi Li trong “Học trò quan ngự y” đã chắp cánh thêm cho tên tuổi Minh Tiến khi được Đàì TH thành phố thu phát hình nên khán giả biết nhiều. Va Xi Li phải giả câm và điếc để được theo học nghề, vì quan ngự y chỉ truyền nghề cho những ai câm và điếc để không tiết lộ những ý đồ thực dụng của ông. Cuối cùng Va Xi Li buộc phải nói lên tiếng vì quan ngự y trị bệnh cho người yêu của anh không đúng cách. Tức giận và bị thua trí nên quan ngự y bị thổ huyết mà chết... Nhân vật giả câm và điếc nên những mâu thuẫn nội tại, xung đột nội tâm chỉ có thể diễn tả bằng gương mặt và động tác do đó việc thể hiện không phải dễ và vì vậy, Minh Tiến đã để lại dấu ấn sâu đậm qua vai này. Cũng trên sân khấu này, NS Minh Tiến gặp cô đào chánh Ngọc Minh và kết thành đôi uyên ương cho đến tận bây giờ. NS Ngọc Minh lúc bấy giờ cũng đang nổi tiếng với phong cách ca hơi dài vút cao, qua các vai được khán giả yêu thích như: Nàng Xê Đa trong vở cùng tên, Trà Hoa Lý trong “Khi rừng thu thay lá”, Phương Hoa trong “Tiếng sáo đêm trăng”, Sao Ly trong “Tình ca biên giới”... Năm 1986, Minh Tiến về Đoàn Trần Hữu Trang 2 nhưng buổi đầu không mấy suôn sẻ. Lúc đó NS Lương Tuấn hát chánh, và do NS Bảo Quốc vắng mặt nên Minh Tiến phải hát hài thay thế NS Bảo Quốc qua hai vai: Vọc Ca trong “Nước mắt bạo lực” và Xuyên trong “Bàn thờ Tổ một cô đào”, cũng tròn vai. Khi NS Lương Tuấn rời đoàn thì Minh Tiến lên hát chánh với NS Thanh Thanh Tâm, thế vai chính ủy Xéc Gây và soạn giả Anh Châu của Lương Tuấn. Sau đó, Minh Tiến về Sài Gòn 2 hát chánh với Ngọc Bích và Lý Bạch Huệ, qua vai Nhơn trong “Tiếng hò sông Hậu” và đại úy Huy Bình trong “Tìm lại cuộc đời.
Thời điểm đáng nhớ nhất của Minh Tiến là những năm từ 1989-1993, khi trải qua các sân khấu đại bang tại thành phố. Anh đã diễn qua các vai Đức Tính trong “Yêu và ghen”, Khắc Cường trong “Em ơi đừng khóc nữa” (Sài Gòn l), Lưu Bị trong “Lưu Bị cáu hôn Giang Tả” (Huỳnh Long), Thái Sa lem trong “Lệnh truy nã”, Hắc Long trong “Vụ án Mã Ngưu” (Trung Hiếu), Thổ quan trong “Ai giết nàng Kiều” (CLBCL Hội SKTP)... Và với vai Thổ quan, anh đã đoạt được HCV tại Hội diễn SKCL năm 1990. Khi “ngôi sao” Minh Tiến mới vừa tỏa sáng trên sân khấu Cải lương thành phố thì bỗng nhiên lại vụt tắt, khiến khán giả không khỏi ngạc nhiên. Một số đồng nghiệp cũng bất ngờ không kém và nói đùa rằng: Minh Tiến đã mai danh ẩn tích để một thời gian sau tái xuất giang hồ” sẽ được công chúng chú ý hơn?
(Còn tiếp)
Theo Lâm Giang - Báo Sân khấu