Công tử Bạc Liêu Và người cha của Công tử Bạc Liêu
Thưa quý bạn, trước đây, ở Sài Gòn, từ thời còn đi học tôi đã nghe nói đến cái tên “Công tử Bạc Liêu” nhưng không hiểu Công tử Bạc Liêu là ai, sinh vào thời nào, còn sống hay đã chết. Thế rồi đến năm 1965, sau khi ra trường, tôi được đổi về Bạc Liêu, anh em có nói với tôi rằng trong các lớp chúng tôi dạy có con của Công tử Bạc Liêu học nhưng tôi cũng không để ý, bởi vì tôi bận quá, vừa đi dạy vừa lo viết tiểu thuyết đăng báo hằng ngày – kêu là viết phơi-ơ-tông – cho hai tờ báo ở trên Sài Gòn, không còn thì giờ để ý đến các chuyện khác. Thế rồi một lần, bác chủ nhà vô tình kể cho tôi nghe chuyện Công tử Bạc Liêu, tôi thấy hơi lạ và hơi tức cười. Ví dụ: bác kể mỗi lần đi đâu, Công tử Bạc Liêu đi một đoàn cả chục chiếc xe xích lô, chiếc thứ nhứt chở cây can, chiếc thứ hai chở chiếc nón nỉ, chiếc thứ ba chở gói thuốc lá, chiếc thứ tư chở cái hộp quẹt v.v…, cậu ngồi xe đằng sau, còn các xe khác hổng chở gì hết. Tôi rất ngạc nhiên nên hỏi: “Thưa bác, tại sao ông ấy lại phải đi nhiều xe như vậy?”. Bác cười: “Bác cũng hổng hiểu. Bởi thế cho nên cẩu mới nổi tiếng là Công tử Bạc Liêu chớ nếu bình thường như người ta thì đâu có nổi tiếng”. Bác còn kể thêm nhiều chuyện khác, trong đó có chuyện, một hôm đoàn xe của Công tử Bạc Liêu đi vô trong đồng thăm ruộng, cậu trông thấy một cô gái đang tắm dưới kênh, ngâm mình dưới nước, cái bụng chửa chình ình. Cậu giận lắm, bèn hỏi cổ là con nhà tá điền nào rồi ra lệnh cho tài khạo đi kêu ông già của cổ tới. Ông già lớ quớ chưa hiểu gì hết, cậu la mắng ổng là không biết dạy con, để cho nó tắm như vậy nó dìm chết đứa trẻ trong bụng thì sao? Ông già không biết giải thích thế nào bèn quỳ xuống lạy cậu và hứa sẽ dạy con, không để cho nó tắm như thế nữa. Cậu bằng lòng lắm, móc bóp cho ông 5 đồng: “Thôi được, đây, tui cho chú, hễ khi nào nó muốn tắm thì mướn người ta gánh nước về cho nó tắm, bụng lớn đừng có ra ngoài kinh, té chết ạ”. Tôi hỏi: “Năm đồng lúc ấy lớn hay nhỏ hả bác?”. Bác chủ nói: “Lớn lắm, cỡ 10 giạ lúa khi đó chớ không phải ít”. Tôi nhẩm tính, mỗi giạ lúa miền Nam là 40 lít, không biết trọng lượng bao nhiêu nhưng chắc chắn phải hơn 40 ký. Như vậy Công tử Bạc Liêu đã cho ông già khoảng non nửa tấn lúa để… mướn người gánh nước cho con gái tắm! – Bác chủ cười: “Đó, giáo sư coi, tá điền ở trong đồng nghèo muốn chết, cơm còn không đủ ăn huống chi chuyện mướn người gánh nước. Ổng là dân Tây, du học bên Pháp về nên tưởng ai cũng sống dễ dàng như ổng”. Tôi rất ngạc nhiên: “Công tử Bạc Liêu đã đi du học bên Pháp?”. “Có, cẩu học ở bển 3 năm, về sống như ông vua con, bán trời không văn tự, cứ muốn làm gì là làm nên mới nổi danh Công tử Bạc Liêu”. Tuy không tiện hỏi nhưng tôi vẫn thắc mắc trong lòng, không hiểu tại sao một người đã từng du học bên Pháp mà lại “ngây thơ” đến mức cho rằng đàn bà chửa ngâm mình dưới nước có thể làm cho đứa trẻ trong bụng bị ngộp. Ngoài ra, cậu cho ông già 5 đồng, đúng là cậu có lòng tốt thật nhưng nếu cho với mục đích để ông… mướn người gánh nước cho con gái ông tắm thì hết chỗ nói, cậu chẳng hiểu gì về sự nghèo khổ của những người tá điền ở trong đồng của gia đình cậu. Sau này, hơn 6 năm trời dạy học ở Bạc Liêu, được nghe nhiều chuyện có thể coi là rất lạ về vị “công tử” xứ Bạc, tôi mới vỡ lẽ ra rằng có những chuyện có thật nhưng cũng có những chuyện chỉ là giai thoại, xảy ra ở đâu đó hoặc với người nào đó, cũng có khi người ta tưởng tượng ra rồi khoác cho cậu, thành thử “chuyện dài Công tử Bạc Liêu” càng ngày càng nhiều và càng ly kỳ, kể không sao hết. Tôi xin lấy ví dụ, cách đây ít lâu, đài truyền hình Sài Gòn làm cuốn phim hài “Công tử Bạc Liêu”, trong đó có đoạn vị Hắc công tử này thi nấu chè bằng tiền với vị Bạch công tử con của vị đại điền chủ Đốc phủ Sảng ở Mỹ Tho. Hai bên thi nhau đẩy tiền vô bếp cho lửa cháy lớn đặng chè của mình mau sôi. Cuối cùng, Hắc công tử (tức Công tử Bạc Liêu) thua vì nồi chè của Bạch công tử sôi trước. Gần đây, ông Phan Kim Khánh là cháu gọi Công tử Bạc Liêu bằng cậu ruột kể lại với ông Phan Trung Nghĩa, là tác giả cuốn sách “Công tử Bạc Liêu & Sự thật và giai thoại” rất có giá trị vì ông Phan Trung Nghĩa là người Bạc Liêu, vừa có họ hàng vừa là bạn bè với ông Phan Kim Khánh, rằng năm 1960, ông Khánh có công chuyện lên Sài Gòn, ghé ngôi biệt thự ở đường Nguyễn Du thăm cậu và có hỏi thẳng cậu: “Thiên hạ đồn thời trẻ cậu ăn chơi quăng tiền qua cửa sổ, đốt tiền làm đuốc, đốt tiền nấu chè… chuyện đó có thiệt không cậu Ba?”. Công tử Bạc Liêu trả lời: “Họ nói tầm phào. Có tiền thì tao qua Nhật chơi gái Nhật chớ tội gì đem đốt!”. Thật đúng khẩu khí của Công tử Bạc Liêu. Sau đây tôi xin trình bày hầu quý bạn những điều có liên quan tới vị công tử ăn chơi khét tiếng nhưng có lẽ cũng rất dễ thương do lòng nhân ái… không giống ai hết của cậu.
* * *
Công tử Bạc Liêu, tên là Trần Trinh Huy, sinh năm 1900, mất năm 1973 tức 2 năm trước khi “giải phóng”, là con trai thứ hai (theo lối gọi trong Nam là thứ ba) của vị đại điền chủ giàu có và nhiều ruộng đất bậc nhất miền Nam Trần Trinh Trạch. Trước hết, tôi xin trình bày về ông “Lớn Trạch” hay ông “Hội đồng Trạch”, để xem ông giàu đến mức nào và tại sao ông lại giàu như thế, thì chúng ta mới hiểu được tại sao Công tử Bạc Liêu lại “ngồi trên đống bạc” và có phương tiện ném tiền qua cửa sổ như vậy. “Ông Lớn” Trần Trinh Trạch, cha của Công tử Bạc Liêu Theo sách của ông Phan Trung Nghĩa và nhiều sách khác như của tác giả Nguyên Hùng chẳng hạn, ông Trần Trinh Trạch sinh năm 1872 tại Vĩnh Lợi, Bạc Liêu, mất năm 1942 (thọ 70 tuổi), khởi đầu chỉ là con của một gia đình tầm thường gần như nghèo khó người Hoa, sang Việt Nam, trôi giạt xuống Bạc Liêu từ lâu, định cư tại khu Cái Dầy (xã Châu Hưng hiện nay, cách trung tâm thành phố Bạc Liêu khoảng 5 cây số). Thuở nhỏ, nhà nghèo, cậu bé Trần Trinh Trạch phải đi ở đợ kiếm miếng cơm ăn, làm đứa trẻ sai vặt cho một vị điền chủ. Gia đình vị điền chủ này gia nhập quốc tịch Pháp. Theo quy định của chính quyền thuộc địa lúc bấy giờ, bắt buộc con cái của các gia đình nhập quốc tịch phải học tiếng Pháp. Khi ấy truyền thống người Hoa là nói tiếng Hoa còn rất phổ biến, người ta ngại học tiếng Pháp, vậy là cậu Trần Trinh Trạch được gia đình này cho đi học thay cho con của họ. Trần Trinh Trạch là một cậu bé thông minh, lanh lợi, đây là điều may mắn đầu tiên giúp cậu có một vốn liếng tiếng Pháp rất khá, khoảng chừng lớp 8-9 trung học. Thời ấy, ở một tỉnh nhỏ nơi quê mùa, học đến đấy là cao lắm rồi và rất hiếm có. Cậu thôi học, trở về nhà mình, làm đơn xin tuyển vào làm thư ký Tòa bố (Tòa Hành chánh tỉnh) và được chấp thuận. Cái may thứ hai của Trần Trinh Trạch là trong khi làm thư ký Tòa bố, cậu được quan Chủ tỉnh người Pháp (tức Tỉnh trưởng sau này) tin cậy, nên có thời kỳ bên nhà đoan Tây thiếu người, vị Chủ tỉnh bèn cử cậu qua phụ trách Công xi rượu (Công xi: company, ngoài Bắc gọi là Công ty). Thời đó, nhà nước thuộc địa chủ trương độc quyền buôn bán và sản xuất rượu. Dân chúng hễ ai nấu rượu, gọi là rượu lậu, sẽ bị bắt và bị phạt rất nặng đến tán gia bại sản. Trần Trinh Trạch được giao cái quyền béo bở là dẫn nhân viên đi bắt rượu lậu. Cứ bắt được 10 đám thì ông ta bỏ túi một nửa, chỉ khai báo có 5 đám. Dân chúng nói là tài sản đầu tiên Trần Trinh Trạch có được là nhờ bỏ túi tiền bạc trong các vụ bắt rượu lậu. Sau đó, Trần Trinh Trạch được gọi trở về làm thư ký chánh văn phòng phụ trách điền địa trong Tòa bố. Đây lại là một dịp may hiếm có khác của Trần Trinh Trạch, bởi vì chính sách điền địa của Pháp tại Bạc Liêu (bao gồm cả Cà Mau) lúc ấy còn rất lỏng lẻo. Dân đi khai phá chủ yếu là tự phát nên việc lập sổ bộ để cấp bằng khoán của sở điền địa rất chậm chạp. Đấy là thời cơ cho những người có thế lực và tiền bạc khẩn hoang… trên giấy tờ. Nghĩa là họ lèo lách để chính quyền thuộc địa cấp cho họ bằng khoán chính thức với những vùng đất rộng lớn hàng trăm hàng ngàn héc-ta (1 héc-ta hay 1 ha tức một mẫu tây = 10,000 m2, gần gấp 3 lần mẫu ta 3,600 m2 ở ngoài Trung và ngoài Bắc – ĐD), trên đó chưa có hoặc đã có dân nghèo đến khẩn hoang, làm ăn sinh sống từ lâu rồi. Nghiễm nhiên các dân nghèo này bỗng dưng bị biến thành tá điền cho bọn nhà giàu ngay trên mảnh đất họ đã đổ mồ hôi nước mắt ra khai khẩn. Tiêu biểu là vụ đồng Nọc Nạn năm 1928, bà Huyện Lành ở Cà Mau chiếm đất của anh em Biện Toại, Mười Chức tại Hộ Phòng thuộc huyện Giá Rai, gây ra cuộc chiến đẫm máu gọi là “vụ án đồng Nọc Nạn”, anh em Mười Chức chết một lúc 5 người. Nếu quý bạn có dịp xuống Tắc Sậy, Hộ Phòng thăm Lăng Cha Diệp, rất nên ghé khu lưu niệm Đồng Nọc Nạn (hay còn gọi là Đồng Nọc Nạng) thăm những ngôi mộ của anh em Mười Chức, nghĩ đến chuyện xưa thấy rất cảm động. Mà, ở Bạc Liêu lúc ấy, thế và lực thì ai bằng cậu “thư ký chánh văn phòng điền địa” Trần Trinh Trạch? Cậu tha hồ vẽ voi vẽ rắn, ăn tiền bằng thích. Một cái may khác nữa của Trần Trinh Trạch là tại Bạc Liêu lúc này có một điền chủ giàu khét tiếng tên là Phan Hộ Biết (tục danh là “Bá hộ Bì”) thường đến Tòa bố nộp thuế và làm các giấy tờ sở hữu đất đai. Năm 1894, Phan Hộ Biết nộp đơn xin lập một ngôi làng mới ông định đặt tên là làng Vĩnh Hưng (tức xã Vĩnh Hưng, huyện Vĩnh Lợi, Bạc Liêu hiện nay), ông sẽ quy tụ dân về đấy, cam đoan chịu trách nhiệm đóng thuế thân cho họ và sẽ bỏ tiền ra xây cất nhà việc (công sở làng) trị giá 200 đồng v.v… Nhưng có một người giàu nổi tiếng khác tên là Bành Trấn đã nhảy vào tranh giành. Ông ta hứa với chính quyền thuộc địa rằng ông chịu đóng thuế cho 300 người và 1,500 mẫu đất nếu quan Toàn quyền Đông Dương cho ông ta sở hữu 1,000 mẫu. Cuối cùng, Toàn quyền Đông Dương chấp nhận đơn xin của Bành Trấn. Kinh nghiệm này cho Phan Hộ Biết thấy ông ta cần có người giỏi tiếng Pháp, thông thạo về điền địa và có thế lực tại Tòa bố để làm tay trong cho ông ta, vì vậy Phan Hộ Biết nhắm cậu chánh văn phòng điền địa Trần Trinh Trạch, lúc ấy mới 22 tuổi và còn độc thân, rồi gả cô con gái tên Phan Thị Muồi, 21 tuổi, (sinh năm 1872, mất năm 1947 sau chồng 5 năm, thọ 75 tuổi) cho Trần Trinh Trạch. Ông Phan Hộ Biết là một người rất giỏi làm ăn, ngoài việc là một đại điền chủ, ông còn được mệnh danh là “ông vua lúa gạo Nam kỳ” thời bấy giờ. Ông có hơn chục chiếc ghe chành để thu mua lúa gạo vùng Bạc Liêu chở về Sài Gòn và là chủ hầu hết các ruộng muối từ Gành Hào cho tới Vĩnh Châu. Từ đó, Trần Trinh Trạch được cha vợ hậu thuẫn cho làm ăn. Người trong gia tộc họ Trần nói mầm mống sự giàu có của Trần Trinh Trạch là do bên vợ. Phan Hộ Biết có tới 7 người vợ sống chung với nhau. Lớp con cháu của ông sau này không ai chí thú làm ăn mà chỉ lo chơi bời, phá của. Ông chia điền sản cho các con thì dần dần nó chui vào tay Trần Trinh Trạch, vì lúc này ông Trạch là người cho vay lãi và những người anh em vợ của ông đến cầm cố nào điền thổ, ruộng muối, ghe chành, ông giống như người thừa kế duy nhất của bố vợ. Khi đã giàu có rồi, Trần Trinh Trạch bắt đầu nghĩ đến việc vinh hiển bằng con đường quan chức. Vào những năm 1929-1933, kinh tế thế giới khủng hoảng, nước Pháp long đong. Chính quyền thuộc địa chiêu dụ các điền chủ để kiếm của cải chuyển về mẫu quốc bằng cách bán cho họ các chức “hàm” và phong các chức tước lớn nhỏ tùy theo mức tiền ủng hộ. Ông Trần Trinh Trạch ủng hộ nước Pháp khoản tiền lớn đến mức mẫu quốc gắn cho ông mề-đay (medal) Đệ ngũ đẳng Bội tinh và tặng một thanh gươm gia bảo. Ông Phan Kim Khánh, cháu ngoại của ông Trần Trinh Trạch, cho biết thanh gươm đó quý đến nỗi năm 1960, đại sứ Pháp ở Sài Gòn thân hành xuống Bạc Liêu gặp ông Henry –quản gia người Pháp có vợ Việt Nam– của gia tộc Trần Trinh để thương lượng việc mua lại thanh gươm đó với bất cứ giá nào, nhưng việc không thành. Nghe đâu thanh gươm đó do Hai Đinh (tức Trần Trinh Đinh, con cả của ông Trần Trinh Trạch) hay do Ba Huy (tức Trần Trinh Huy, Công tử Bạc Liêu) giữ, không hiểu bây giờ thất lạc nơi nào. Còn tấm mề-đay Đệ ngũ đẳng Bội tinh thì vô địch. Hễ ông Trạch đeo vào, từ quan Chủ tỉnh trở xuống khi gặp đều phải đứng nghiêm chào. Ngoài hai món trên, ông Trạch còn được quan Toàn quyền Đông Dương phong chức “Đại biểu Hội đồng Cơ mật Đông Dương” (tương đương với Nghị sĩ nghị viện liên bang), tuy dân chúng vẫn quen miệng gọi là “ông Hội đồng” nhưng chức này lớn hơn “ông Hội đồng” của “Đại biểu Hội đồng hàng tỉnh” (tương đương với Nghị viên hội đồng hàng tỉnh) rất nhiều. Ông Trạch có thể đến gặp Toàn quyền Đông Dương bất cứ lúc nào ông muốn. Từ đó dân chúng còn gọi ông là “ông Lớn Trạch”. Vùng Cần Thơ, Rạch Giá, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau v.v… lúc bấy giờ còn rất hoang sơ, chưa có đường sá, cầu cống, kênh lạch… đi lại thuận tiện như bây giờ. Ruộng đất mới khai phá bị úng phèn, lúa không mọc được, nhiều chủ điền bỏ tiền ra thuê tá điền khai khẩn, bị lỗ nặng, thiếu tiền đóng thuế, có khi bị ở tù. Với thế lực “chơi với quan Toàn quyền và quan Chủ tỉnh”, ông Trạch nắm được kế hoạch đào các sông ngòi, kênh lạch, khai thông nước bị úng phèn cho chảy ra biển để lấy đất cho dân canh tác, làm giàu nông nghiệp. Ông coi bản đồ qui hoạch, cứ thấy vùng nào máy xáng (máy đào sông ngòi, kênh lạch) sẽ đào hệ thống dẫn thủy và đổ đất lên làm đường là bỏ tiền ra mua cả vùng đất đó. Thậm chí, người ta bán những khoảng đất chưa khai hoang, chỉ mới có bằng khoán trên giấy tờ ông cũng mua. Ông có con mắt tinh đời là đoán biết những vùng đất gần bờ biển sau này sẽ trở thành các ruộng muối, ông mua với giá rẻ mạt nhưng khi hệ thống dẫn thủy đã làm xong, tất cả những vùng ruộng lúa, ruộng muối, đất chưa khai khẩn của Trần Trinh Trạch đều trở thành có giá trị cao gấp bội phần. Nói chung, Trần Trinh Trạch là vị đại điền chủ giàu có và nhiều ruộng đất, nhiều nhà cửa nhất miền Nam. Về ruộng trồng lúa, ông có 110,000 ha (có sách nói là 145,000 ha) gồm 74 sở điền tại Vĩnh Lợi, Vĩnh Châu và các nơi khác như Cần Thơ, Rạch Giá, Sóc Trăng, Cà Mau… Về ruộng làm muối, ông có 100,000 ha. Ông gặp thời cơ lớn: khi người Hoa kiều sang Biển Hồ (Campuchia) hoặc đến Bạc Liêu, Sóc Trăng, Cà Mau phát huy nghề truyền thống của họ là làm cá khô xuất sang Hồng Kông, Mã Lai, Singapore, Philippines, Nhật… mặt hàng này xuất khẩu rất mạnh, lúc đó chưa có công nghệ làm nước đá, việc ướp cá phải dùng muối; rồi việc muối cá mắm, muối ba khía… cũng cần muối. Giá muối trở thành rất cao, có lúc 1 giạ muối (cũng đong bằng chiếc “táo” 40 lít) mua được 5 giạ lúa. Ông Trạch “trúng mánh” không để đâu hết của! Ngoài những nghề kể trên, ông Trạch còn mua đất, cất phố lầu để cho thuê. Cho đến bây giờ hậu duệ của dòng họ Trần cũng không nhớ nổi tại khu chợ Bạc Liêu ông Lớn Trạch có bao nhiêu dãy phố lầu. Họ chỉ đoán rằng hầu hết các dãy phố cất trước năm 1930 ở thị xã Bạc Liêu đều là của ông. Năm 1917, ông Trạch cất ngôi biệt thự theo kiểu Pháp ở gần bờ sông, trung tâm Bạc Liêu (sau 75 bị tịch thu, dùng làm Trung tâm Thể dục Thể thao rồi được cải tạo lại, dùng làm Nhà hàng và Khách sạn Công tử Bạc Liêu (xin xem hình), còn khu vườn rất rộng và đẹp, có nhiều cây cối bên cạnh cũng của Công tử Bạc Liêu thì được dùng làm Quán cà phê Công tử Bạc Liêu). Người bình dân và dòng họ Trần Trinh lúc bấy giờ gọi ngôi biệt thự này là “Nhà lớn” vì nó lớn, sang trọng và đẹp nhất Bạc Liêu, bên trong lát toàn bằng đá cẩm thạch, mùa hè bước vào mát rượi.
Tại Bạc Liêu ông Trạch còn hai ngôi biệt thự to nữa, đó là ngôi số 42 đường Bà Triệu và một ngôi khác hiện là Thư viện tỉnh. Ở Cần Thơ, Rạch Giá, Đà Lạt, Vũng Tàu… ông Trạch đều có biệt thự. Đặc biệt là ở Sài Gòn, ngoài ngôi biệt thự ở đường Nguyễn Du (phía gần vườn Tao Đàn và trường Quốc gia Âm Nhạc, sau này “cậu Ba” Trần Trinh Huy ở), ông còn nhiều biệt thự khác và nhiều căn phố lầu. Tại các sở điền lớn đều có nhà của ông Trạch. Những ngôi biệt thự của ông bên ngoài thì xây theo kiểu Pháp rất tân tiến, oai vệ (như ngôi “Nhà lớn” chẳng hạn, xây năm 1917, đã 96 năm rồi, đến nay trông vẫn còn hợp thời), bên trong trang trí toàn những đồ vật quý pha trộn giữa Đông và Tây: bàn ghế danh mộc kiểu Louis XV, Louis XVI của Pháp hoặc những bức bình phong chạm trổ mai, lan, cúc, trúc. Đồ vật trong ngôi “Nhà lớn” lại càng cực kỳ quý giá, trong đó có bộ trường kỷ mà ngày xưa ông Ngô Đình Cẩn em trai của Tổng thống Ngô Đình Diệm ở ngoài Huế cho người vào, xuống Bạc Liêu trả giá tới 2 triệu đồng mà họ Trần không bán. Ông Trạch là người thận trọng, không hề ăn chơi, không có “bồ nhí”, chỉ sống chung thủy với vợ suốt đời, nên năm 1919, 47 tuổi, ông thuê thợ điêu khắc và thợ đúc kim loại tổng hợp từ bên Thụy Sĩ sang tạc và đúc cho vợ chồng 4 bức tượng: đôi màu trắng tạc bằng đá cẩm thạch, đôi màu đen đúc bằng kim loại tổng hợp. Tượng theo kiểu bán thân, kích cỡ vừa bằng người thật. Tượng bà Phan Thị Muồi vợ ông thì mặc áo dài, còn tượng ông thì áo dài khăn đóng, ngực đeo Đệ ngũ đẳng Bội tinh. Cả 4 bức tượng này do ông Phan Kim Khánh cháu ngoại của ông giữ, hiện còn tại Bạc Liêu. Cuốn phim hài “Công tử Bạc Liêu” nói rằng bà Muồi giỏi tiếng Pháp, ăn chơi, giao dịch, nhảy đầm với các quan chức người Pháp như máy. Không đúng. Các tá điền lão thành hiện nay còn sống kể lại rằng bà không biết chữ, tóc cắt ngắn cum cúm theo kiểu phụ nữ người Hoa, chuyên mặc áo xẩm bằng vải sa-teng đen bóng. Đặc biệt, không hiểu từ bao giờ mắt bà không mở ra được, nên suốt ngày bà nằm trên chiếc ghế xích đu trước cửa ra vào, khi nào muốn nhìn thì phải lấy tay kéo mi mắt lên. Bà không bao giờ ăn được thịt, mỡ, vì hễ ăn vào là bị đau bụng, tháo dạ. Bữa cơm của vị “phu nhân” có chồng nhiều ruộng đất nhất miền Nam đó chỉ là mắm chưng và ba khía muối, suốt năm này tháng nọ. Có lời bình phẩm trong giới bình dân rằng ông Hội đồng Trạch là người nhân đức. Hễ trong điền của ông, con gái được gả chồng ra khỏi điền thì ông cho 1 đồng (tương đương với 5 giạ lúa lúc ấy), còn nếu con gái lấy chồng hay con trai lấy vợ về điền thì ông cho 2 đồng. Một chuyện khác là phu ở các đồn điền cao su tại các tỉnh miền Đông Nam bộ, vì quá cực khổ nên trốn xuống miền Tây làm tá điền cho ông. Khi chủ đồn điền cho người đi lùng bắt, ông sẵn sàng bỏ tiền ra trả nợ giùm họ để họ được tiếp tục làm cho ông. Sự thật, có thể ông Lớn Trạch nhân đức vì ông sống rất dễ dãi, chẳng bao giờ la mắng hay đánh đập người ăn người làm, nhưng còn một lý do khác là ông khôn, ruộng đất của ông hơn trăm ngàn mẫu, rất cần tá điền, ông đối xử tốt với họ hơn các điền chủ thiển cận không biết suy nghĩ cũng là hợp lý. Ông tốt nhưng rất thâm, tá điền trắng tay ở nơi khác đến, ông cho họ vay 20 giạ lúa và 7 đồng để họ làm cho ông. Các chủ điền khác mất người, tuy biết, muốn kéo họ lại nhưng cũng không được vì họ thích làm cho “ông Hội đồng” hơn.
“Đại gia” về trời Khi đã lớn tuổi, ông Trần Trinh Trạch lo đến việc hậu sự bằng cách làm sẵn lăng mộ trước ở Cái Dầy là nơi phát tích của ông (cách trung tâm TP Bạc Liêu khoảng 5 cây số về phía bên trái trên quốc lộ 4 – nay là quốc lộ 1A – về hướng Sài Gòn; bên trên đề chữ “Trần Gia Chi Mộ” bằng tiếng Việt, bên dưới mới đề chữ Hán). Nền mộ cao 1 mét, có diện tích 1000 mét vuông. Cả lăng lẫn nền mộ xây toàn bằng đá cẩm thạch trắng. Ông mất ngày 14 tháng 3 năm 1942 tại Sài Gòn về bệnh hen suyễn, thọ 70 tuổi. Lúc ấy tình hình chính trị có nhiều điều bất lợi cho giới điền chủ nên uy quyền và tiền bạc suy giảm, không còn lẫy lừng như trước nữa nhưng đám tang của ông cũng lớn đến mức trở thành một giai thoại. Nhà nước Pháp ra lệnh cho quan Toàn quyền cử một đội lính Lê dương (lính chính quy người nước ngoài, khác với lính Khố xanh hoặc Khố đỏ bản xứ – ĐD) súng ống, nai nịt chỉnh tề, tháp tùng linh cữu ông từ Sài Gòn về tới Nhà lớn Bạc Liêu, rồi đến ngày động quan lại có một đội khác thay thế, đưa linh cữu ông ra tới tận huyệt. Đám tang không nhận phúng điếu và có lệnh bất cứ một tá điền nào đến để tang đều được nhận 1 cắc (tương đương với 1 giạ lúa lúc ấy). Tá điền ở Vĩnh Hưng, Bàu Sàng được huy động tới che rạp và phục dịch. Người ta che rạp rộng tới mấy ngàn mét vuông từ sân Nhà lớn tới giáp bờ sông (nay là một đường nhựa khá lớn và bờ sông là một vườn hoa). Đám tang được quàn 7 ngày 7 đêm. Ai đến ăn uống cũng được. Dân đi chợ không quen biết gì cũng ghé ăn cơm đám ma. Đặc biệt là những người ăn xin tận Sóc Trăng xa xôi cũng kéo xuống “ăn dầm nằm dề”, coi như họ được no nê suốt 7 ngày đêm. Khi đưa tang, thân bằng quyến thuộc, bạn bè và tá điền đi thành một đoàn dài 5 cây số, cái đầu đã đến khu mộ mà cái đuôi còn ở Nhà lớn, với xe cộ ầm ầm, hàng trăm tấm giản và các vòng hoa. Ba dàn nhạc: Tìa lào cấu (Hoa), Ngũ âm (Khmer), và nhạc Đạo tỳ (Việt) trỗi lên nghe vui nhiều hơn buồn. Đó là tất cả những gì về con người giàu nhất miền Nam đã khuất. Công tử Bạc Liêu Tại sao có danh từ “Công tử Bạc Liêu”?
Nếu bây giờ các nhà giàu hay các gia đình có quyền thế – tức “tư bản đỏ” – thi nhau cho con du học bên Mỹ, thì ngày trước, thời Pháp thuộc, các điền chủ và đại điền chủ thi nhau cho con du học bên Pháp, hay ít nhất cũng lên học trên Sài Gòn. Hầu hết các điền chủ và đại điền chủ ở Bạc Liêu đều mua một vài căn nhà ở Sài Gòn để cho con cái lên đấy ở hoặc đi học. Lớp con cái của họ sinh ra đã sống trên nhung lụa, tiền bạc tiêu xài không hết nên họ không biết quý đồng tiền. Họ đua nhau ăn chơi, ném tiền qua cửa sổ cho mọi người phải nể. Huỳnh Văn Phước – tên tiếng Tiều (Triều Châu) quen gọi là Dù Hột, con ông chủ Chá, một trong các đại điền chủ khác tại Bạc Liêu (Phước có người chị ruột cất ngôi chùa hiện nay gọi là Chùa Cô Hai Ngó). Phước hay mặc bộ đồ bà ba trắng, đi giày Tàu, đội nón Hồng Kông (thứ nón bằng nhựa cứng kiểu Anh, chế tạo tại Singapore), cầm cây can Nhựt bổn, hút thuốc xì gà Ma-ní (Philippines). Mỗi lần vị công tử này ngủ ở khách sạn Sài Gòn, sáng bước xuống đường là đám xe kéo lại xúm đến, giành nhau chở vì Phước trả tiền không cần thối lại. Phước thấy khó xử nên bảo: “Thôi được, đi hết!”. Vậy là một xe chở Phước, một xe chở chiếc nón, một xe chở cây can…, còn các xe khác không chở gì hết nhưng cũng đi theo và cũng sẽ được trả tiền. Đoàn xe đi vòng vòng chợ Sài Gòn, người ta bu đông đứng coi, có người nói: “Thằng cha đó điên” nhưng cũng có người nói: “Công tử Bạc Liêu đấy!”. Thế là từ đó tiếng đồn công tử Bạc Liêu tiêu xài rộng rãi được nhiều người kể cho nhau nghe. Sau này người ta gán giai thoại đó cho Trần Trinh Huy là không đúng sự thật, và họ đã biến những chiếc xe kéo có hai càng dài, người phu chạy phía đằng trước, thành xe xích lô mặc dầu lúc ấy ở Bạc Liêu tất nhiên cũng chưa có xe lích lô. Những cậu ấm Bạc Liêu nổi đình đám hay lên sống trên Sài Gòn lúc bấy giờ là Dù Hột, Hai Lũy, Hai Đinh, Ba Cân v.v… và thành ngữ “Công tử Bạc Liêu” ra đời. Sự thật, dân Sài Gòn và các tỉnh miền Tây dùng những tiếng này để chỉ cả nhóm công tử Bạc Liêu chứ không phải chỉ một mình Công tử Bạc Liêu như bây giờ. Tuy nhiên, những tên tuổi nói trên lập tức bị lu mờ khi Trần Trinh Huy du học bên Pháp về. Lối sống phong lưu, phóng túng của Trần Trinh Huy đã làm nên những giai thoại như đốt giấy bạc 100 đồng để soi chiếc nhẫn hột xoàn của cô Bảy Phùng Há rơi dưới gầm bàn, trong khi Bạch công tử “giựt le” với người đẹp, đốt tờ giấy bạc 5 đồng. Rồi chuyện thi đốt tiền nấu chè do người ta đồn v.v…, cậu Ba Huy trở thành tay chơi “ngon” nhất Nam bộ. Hễ ai nói tới Công tử Bạc Liêu là mọi người nghĩ ngay đó là “công tử” Trần Trinh Huy. Vậy Công tử Bạc Liêu là ai mà “danh bất hư truyền” như vậy ?
Công tử Bạc Liêu Ông Trần Trinh Trạch một vợ một chồng cho đến hết đời, có 7 người con lần lượt là: “cậu Hai” Trần Trinh Đinh (sinh năm 1896); “cậu Ba” Trần Trinh Huy (sinh năm 1900); rồi đến 4 người con gái: cô Tư Trần Thị Huệ (sinh năm 1902), cô Năm Trần Thị Thu (1904), cô Sáu Trần Thị Đông (1906), cô Bảy Trần Thị Dày (1911); cuối cùng, người thứ 7 là cậu “Tám bò” Trần Trinh Khương. Gọi như vậy bởi vì lúc còn nhỏ cậu chỉ thích bò chứ không thích tập đi như các trẻ em khác. Nếu người coi không để ý, cậu có thể bò từ dưới sân lên các bậc thềm bên trên hay từ các bậc thềm bên trên xuống bên dưới mà không bị té. Ông Lớn Trạch bảo: “Kệ nó, té thì nó ráng chịu”. “Cậu Hai” Trần Trinh Đinh cũng là tay ăn chơi có hạng không kém gì các “công tử” khác. Người ta kể rằng có lần ngồi trên chiếc xe do một người Khmer trước đã từng làm tài xế cho ông hoàng Sihanouk (1922-2012, sau này là vua Sihanouk, mới mất tháng 10 năm ngoái) lái. Thấy vợ của người tài xế quá đẹp, cậu Hai mê mẩn, vốn tính ba trợn không biết nể nang ai, cậu bèn hỏi thẳng: “Mày bán vợ mày cho tao được không? Muốn bao nhiêu tiền tao cũng trả!”. Người tài xế tức, trả lời cho bõ ghét: “Bán đấy. Tui bán 20,000 đồng, ông mua nổi không?”. Lúc ấy giá lúa có 1.2 đồng một giạ (40 lít), vậy mà Hai Đinh mua thật. Vợ người tài xế ăn ở với Hai Đinh cho đến hết đời. Từ đấy Hai Đinh có thói quen ở trần, mặc xà-rông theo kiểu người Khmer (Campuchia). Bốn người con gái thì không ăn chơi và không có gì đặc biệt. Riêng cô Sáu Đông (người mặc áo trắng, đeo bóp, đứng thứ ba trong hình từ bên trái sang) thì có mối tình hơi lạ như sau: Phan Kim Cân (cha của Phan Kim Khánh hiện nay còn sống) là cháu nội của ông Phan Hộ Biết cha vợ của ông Trần Trinh Trạch. Bà Phan Thị Muồi là vợ ông Trần Trinh Trạch, sinh ra cô Sáu Đông, như vậy cô Sáu Đông là em con cô con cậu ruột với Phan Kim Cân. Nhưng “công tử” Phan Kim Cân thương cô Sáu Đông, hai bên nhất định lấy nhau, sinh ra Phan Kim Sơn, Phan Kim Khánh và mấy người con khác. Gia đình ông Trần Trinh Trạch cho là “loạn luân” nên không bằng lòng, nhưng cuối cùng rồi cũng huề. Năm 1945, Phan Kim Cân đi theo Việt Minh, làm chức Trưởng ban Kinh tề-Tài chánh tỉnh Bạc Liêu. Công tử Bạc Liêu Trần Trinh Huy bị bắt cóc đem vô nhốt trong một căn chòi trong đồng, suýt bị xử tử về tội “bóc lột tá điền”. Nhưng Phan Kim Cân bảo đảm cho Trần Trinh Huy (tức anh vợ và cũng là anh em con cô con cậu) được thả, về đem một số tiền cực lớn cộng với thuốc tây vào nạp cho kháng chiến. Từ đấy “Công tử Bạc Liêu” sợ, bỏ lên ở biệt trên Sài Gòn không dám về Bạc Liêu nữa khi còn Việt Minh. Năm 1954, Phan Kim Cân đem người con trai lớn là Phan Kim Sơn tập kết ra Bắc, đến 1975 mới trở về thăm gia đình thì cũng đã ngoài 70 tuổi rồi.
Chân dung Công tử Bạc Liêu Trần Trinh Huy sinh ngày 22-6-1900 tại làng Vĩnh Hưng, quận Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu; mất năm 1973 tại Sài Gòn, táng tại Cái Dầy gần mộ ông Trần Trinh Trạch, cách “Nhà lớn” Bạc Liêu khoảng 5 cây số. Thân hình cậu cao lớn, đầy sinh lực với nước da ngăm ngăm đen, đôi lông mày rậm, nên được gọi là Hắc công tử để phân biệt đối nghịch với Bạch công tử George Lê Văn Phước con của ông đốc phủ sứ Lê Văn Sảng ở Mỹ Tho (bây giờ là tỉnh Tiền Giang). Tính nết Hắc công tử khoáng đạt, coi tiền bạc như rác, không có mưu đồ gì. Thời đó, các công tử hay chủ điền khi giao dịch với người Pháp thường khúm núm, bợ đỡ, kêu là “chơi thế” (nhường nhịn để lợi dụng khi có thể), còn “cậu Ba” thì không, đã đi học bên Pháp về mà nhà lại giàu nhất miền Nam nên cậu chơi ngang hàng với họ, cứ “toa toa, moa moa” (“bạn bạn, tôi tôi”) chẳng thèm “chơi thế” gì hết. Còn về phía người Pháp, họ cũng có phần nể cậu vì cậu học trường Tây từ nhỏ, nói tiếng Pháp như tiếng mẹ đẻ, có vợ đầm, có bằng lái xe và bằng lái máy bay, gia đình lại thuê người Pháp (ông Henry) rất có trình độ làm quản lý gần như suốt đời. Ba Huy sinh hoạt cực kỳ sang trọng. Ra đường là đóng bộ đồ vest bằng thứ hàng đắt tiền nhất thời đó. Thói quen mà Ba Huy thích là sáng ăn bánh mì với bơ, uống cà phê sữa. Trưa ăn súp vi cá. Chiều ăn cơm với cà-ri nấu bằng hai loại cá: cá chim và cá chẽm, nhưng thường là ăn ở tiệm hơn ăn ở nhà do bà người làm nấu. Cậu chẳng có công việc gì cả. Buổi sáng ở nhà đọc báo hoặc giao du với bạn bè Sài Gòn cùng giới với mình. Buổi chiều, tài xế đánh xe chở “cậu” đi nhà hàng chơi bời đến khuya. Chủ nhật thì “cậu” đi Cấp (Vũng Tàu), đi Đà Lạt hay về Cần Thơ nghỉ cuối tuần. Tính cậu hay xê dịch, ít khi ở chỗ nào được quá một tuần lễ và cực kỳ ham vui, hễ chỗ nào “vui” như các sòng bạc, tiệm nhảy là cậu luôn luôn có mặt. Riêng về thói mê gái thì cậu hết sẩy! Không ai biết trong đời cậu đã quen bao nhiêu phụ nữ, đã “yêu” bao nhiêu phụ nữ và đã tốn bao nhiêu tiền cho phụ nữ. Con rơi con rớt của cậu cũng không ai đoán được là bao nhiêu. Ở trong đồng, các sở điền lớn dưới quyền của cậu đều có các ngôi nhà lầu của ông Trần Trinh Trạch để làm việc và chứa lúa khi đến mùa thu lúa ruộng. Cậu đi “kinh lý”, thấy con gái tá điền có cô nào đẹp thì sai tằng khạo bảo với ông già của cổ buổi tối đưa cổ lên “giúp việc” cho cậu ít bữa, vậy là xong thôi, chẳng ai dám trái lời. Từ nhà cửa cho đến ruộng đất cày cấy, cả gia đình họ đều sống nhờ vào đất đai dưới quyền của cậu, nếu không “hy sinh” đứa con gái, cậu giận, sai tằng khạo đuổi thì sẽ sống ra sao mặc dầu tánh cậu hiền, chưa đuổi ai bao giờ cả. Làm tá điền cho bất cứ ông chủ nào thì cũng không bằng làm cho gia đình cậu, vì vậy họ phải “hy sinh”. Được cái, ăn ở với con cái tá điền một vài ngày xong, cậu đều “bồi thường” rất hậu. Có khi, cô gái có bầu, sanh con, đứa trẻ đã lớn, “ông ngoại” của nó vì nghèo quá nên dắt nó ra trình cậu, cậu ngớ người, không nhớ gì hết mà cũng chẳng biết nó có phải con của mình hay không nhưng cũng cho ông già tiền để về nuôi nó, cho nó đi học. Những người vợ của Công tử Bạc Liêu Ba Huy được ông Trần Trinh Trạch cưới cho người vợ chính thức và là người duy nhất có lễ hỏi lễ cưới đàng hoàng là cô Ngô Thị Đen (xin xem hình), con của ông Bá hộ Mín, em gái của ông Hội đồng Điều, điền chủ, cũng rất nổi tiếng tại Bạc Liêu. (Nhà của ông Hội đồng Điều sau 1975 bị tịch thu, hiện nay dùng làm Sở Nông nghiệp và Ngân hàng Phát triển Nông thôn Bạc Liêu).
Bà Ngô Thị Đen được thừa kế một số tài sản của cha lớn đến nỗi dưới thời VNCH, theo Sắc luật Người cày có ruộng của Chính phủ Nguyễn Cao Kỳ, điền sản của các điền chủ bị truất hữu chia cho dân cày nhưng được bồi thường và gọi là tiền truất hữu. Những người làm trong Ngân khố Bạc Liêu trước năm 75 kể rằng, cứ cách một tuần lễ lại có hai trái phiếu về tiền truất hữu từ Sài Gòn gởi xuống, với số lượng tiền lớn nhứt cả tỉnh, đó là trái phiếu mang tên ông Trần Trinh Trạch và trái phiếu mang tên bà Ngô Thị Đen. Bà Đen ăn ở với Công tử Bạc Liêu được một người con gái tên là Trần Thị Lưỡng, mặc dầu cô còn nhỏ nhưng mọi người đều gọi là cô Hai Lưỡng. Sau này lớn lên, cô Hai Lưỡng trở thành một luật sư ở bên Pháp, lấy ông Nguyễn Duy Quang là chánh văn phòng của vua Bảo Đại lúc ngài là Quốc trưởng đang sống tại Pháp. Ở với người chồng bay bướm như Công tử Bạc Liêu, bà Ngô Thị Đen không có hạnh phúc nên chán nản, đem con gái theo gia đình mình sang Pháp. Được ít lâu, bà bị bệnh bướu não phải chở qua Thuỵ Sĩ giải phẫu rồi qua đời vào năm 1972. Sau khi bà mất, gia đình bà và người con trai mà Trần Trinh Huy có với người vợ đầm tại Pháp mua một chiếc hòm tráng thủy khâm liệm bà để chở về Việt Nam. Đám tang của bà cũng được dân Bạc Liêu truyền tụng như một giai thoại, rằng: quan tài của bà quàn tại Nhà lớn, dân chúng ùn ùn tới xem như đi trẩy hội. Họ đến không phải để dự đám tang mà là để xem chiếc quan tài. Nghe nói chiếc hòm được mua tới 10 triệu đồng (vào thời điểm năm 1972). Nó bằng kẽm, bên trong tráng thủy, bên ngoài mạ vàng, mỗi bên có 4 quai xách. Trên nắp hòm có một ô cửa nhỏ, hễ dùng chìa khóa mở là nắp bật ra, để lộ một ô kính, nhìn vào thấy mặt người chết như đang nằm ngủ. Ngoài người vợ chính thức do cha mẹ cưới cho nói trên, “cậu Ba” còn có nhiều vợ do cậu tự ý chọn lấy, không có cưới hỏi, có thể kể như sau: Bà thứ hai có 2 con trai tên Nhơn và Đức (chúng ta sẽ nói nhiều về người con này). Bà thứ ba có bốn người con, 2 trai, 2 gái, lần lượt tên là Hoàn, Toàn, Trinh, và Nữ. Ấy là chưa kể người vợ đầm ở bên Pháp có một con trai, và một cô ở Sài Gòn còn rất trẻ với câu chuyện như sau: Vào khoảng đầu thập niên 60, tức lúc ấy Công tử Bạc Liêu đã ngoài 60 tuổi. Một hôm, cậu đứng trên ban công ngôi biệt thự của mình ở đường Nguyễn Du, Sài Gòn, nhìn xuống đường thì thấy một cô gái khoảng chừng 17-18 tuổi gánh nước đi ngang qua. Cậu giật mình, cực kỳ ngạc nhiên: con gái nhà ai đẹp quá cỡ thế này mà mình không biết? – Cậu hỏi người nhà và được biết đó là cô gái gánh nước mướn, con thứ ba của ông già sửa xe đạp ở đầu đường. Một bữa, Ba Huy đến gặp ông già và hỏi thẳng: - Tôi là Công tử Bạc Liêu. Con gái ông đẹp lắm, ông gả cho tôi được không? Nếu ông gả, tôi sẽ cho ông một căn phố lầu ngoài mặt đường để buôn bán và hằng tháng sẽ cấp một số tiền để ông sanh sống… Ông già rất khó nghĩ. Ở khu này ông đã nghe nói chủ ngôi biệt thự là Công tử Bạc Liêu, một người nổi tiếng giàu có bậc nhất miền Tây, nhưng cậu lớn tuổi rồi, ít nhứt cũng ngoài 60, trong khi con mình mới 17 tuổi. Không gả thì cũng hơi uổng. Ông hứa sẽ về hỏi con gái ông xem sao, tùy con gái ông quyết định. Khi ông già về hỏi con gái thì cô lộ vẻ suy nghĩ, nét mặt rất buồn và trả lời: “Nhà mình nghèo quá, con gánh nước mướn tối ngày mệt lắm, nhìn tới nhìn lui không thấy một chút tương lai. Thôi thì lấy ổng đi, cả nhà được sống trong căn phố lầu, lại có cơm ăn, tía không phải đi sửa xe nữa…”. Vậy là ông già đồng ý. Công tử Bạc Liêu bèn kêu người làm giấy tờ sang tên cho ông một căn phố lầu và hằng tháng chu cấp tiền bạc như lời đã hứa. Chưa đầy 10 năm sau, năm 1973, Công tử Bạc Liêu qua đời tại ngôi biệt thự đường Nguyễn Du thì cô gái sống với ông đã được hai con, một trai, một gái (có sách nói bốn con, 2 trai, 2 gái) và chưa tới 27 tuổi. Cô để tang, tiễn linh cữu chồng về Bạc Liêu xong, trở về nhà bàn với cha bán căn phố lầu, đem tiền ra Vũng Tàu mua một căn nhà nho nhỏ làm chỗ buôn bán, nuôi hai con ăn học và ở vậy cho đến bây giờ. Hiện nay bà chưa tới 70 tuổi, vẫn sống ở Vũng Tàu, đã có cháu nội cháu ngoại. Hai con của bà có lẽ là những người thành đạt nhất trong số các con của Công tử Bạc Liêu sống tại Việt Nam. Trong số các bà vợ không chính thức của Công tử Bạc Liêu, có một bà vốn là vợ của một nhà bác vật (kỹ sư). Ông này đã từng là bạn thân với Công tử Bạc Liêu, cùng du học bên Pháp và giao hảo với nhau nhiều năm. Nhưng Công tử Bạc Liêu “chài” vợ bạn. Nhà bác vật biết, bèn kêu Công tử Bạc Liêu tới giao vợ. Hai bên thành vợ thành chồng, muối mặt sống với nhau, vì vậy dân chúng Bạc Liêu chê trách cậu Ba Huy không để đâu cho hết… Việc ăn chơi quá mức của Công tử Bạc Liêu Cậu Ba Trần Trinh Huy học tới bậc Thành chung (Diplôme) ở Sài Gòn, thay vì tiếp tục học ban Tú tài (Baccalauréat) tại trường Chasseloup Laubat (nay là trường Lê Quý Đôn ở đường Nguyễn Thị Minh Khai, ngang hông Dinh Độc Lập) là trường dành riêng cho các công tử con nhà giàu có quốc tịch Pháp thì cậu lại xin với cha cho đi du học bên Tây. Vốn là một đại điền chủ giàu có nhứt miền Nam, ông Trần Trinh Trạch muốn “giựt le” với thiên hạ nên bèn đồng ý, trong khi đó “cậu Hai” Trần Trinh Đinh và “cậu Tám bò” Trần Trinh Khương học hết bậc Thành chung là ông gọi về cai quản điền sản cho ông. Ba năm ở bên Pháp, “cậu Ba” học đủ thứ: nhảy đầm, lái xe hơi, lái máy bay, đánh box v.v…, thứ nào cũng đến mức thượng thừa, chỉ có một thứ quan trọng nhứt mà ông Trần Trinh Trạch mong muốn là cậu đậu đạt, có bằng cấp lớn như kỹ sư, bác sĩ nọ kia thì cậu không thèm học, chẳng có bằng cấp gì cả, nhưng ông Lớn Trạch không biết, cứ tưởng cậu đã ăn học thành tài.
- Cậu Ba vinh quy bái tổ: Trước khi về tới Sài Gòn, cậu Ba đánh điện tín cho cả nhà biết cậu đáp con tàu Aramis và tàu sẽ cập bến Nhà Rồng vào tuần tới. Ông Lớn Trạch mừng lắm, ra lệnh dọn dẹp, trang hoàng nhà cửa để chuẩn bị đón câu “quý tử”. Nhà đã có chiếc xe Ford đang xài tốt nhưng ông nói nhân sự kiện đặc biệt này, phải sắm một chiếc xe mới cho xứng với học hàm học vị của cậu Ba và làm rạng mặt Trần gia. Sách vở kể rằng, khi ông đi với người tài xế lên hãng Kitchener phía trước Tòa Đô sảnh (bên cạnh rạp Rex sau này) để xem xe, với bộ đồ bà ba trắng hơi cũ, đầu đội chiếc nón nỉ cũng cũ, tay ôm chiếc mo cau căng phồng gấp làm đôi cột dây nhợ, người Tây gác dan nhìn ông ra chiều khi dể định đuổi ông ra ngoài. Ông đi lang thang coi xe, thấy 2 chiếc Mercedes bóng loáng, có vẻ ưng ý lắm. Người quản lý sợ ông ăn cắp nên đi theo. Ông nói tiếng Pháp với họ. Họ cho biết hai chiếc xe, một chiếc đã bán cho vua Bảo Đại nhưng ngài chưa lấy, còn lại một chiếc. Ông bảo được, vậy thì ông mua, khiến họ ngạc nhiên. Khi họ dẫn ông vô làm giấy tờ và thanh toán tiền, ông mở chiếc mo cau, bên trong một tập dày cộm toàn là giấy “bộ lư” (giấy 100 đồng) khiến cả văn phòng ai cũng trợn tròn mắt kinh ngạc. Cậu Ba về nước, dáng vẻ cực kỳ sang trọng với bộ đồ vest trông cứ như tài tử điện ảnh. Cậu đến ôm hôn từng người theo kiểu bên Tây làm ai cũng mắc cỡ, mấy cô em gái của cậu thì cười, đỏ mặt và đẩy cậu ra: “Anh Ba nầy kỳ!…” nhưng các cô cũng thích lắm. Cậu bảo: “Bên Tây nó như vậy. Cái đó kêu bằng “embrasser” (ôm hôn) chớ không phải “baiser” (hôn nhau)”. Ông Lớn Trạch cho biết đã mua xe mới, cậu nói “vậy thì mọi người đi hai chiếc xe lớn đã mướn là xe Ưng Ký và xe Đại Đồng, còn cậu sẽ lái chiếc Mercedes chở papa với maman dìa”. Ông Lớn Trạch ngạc nhiện: “Thằng Ba mầy cũng biết lái xe?”. Cậu cười: “Có chớ papa. Ở bển con còn có cả bằng lái máy bay nữa”. Trên đường đi, cậu lái rất giỏi, phóng chiếc Mercedes như bay khiến bà Lớn Trạch hết hồn, luôn luôn giục cậu chạy từ từ kẻo gây tai nạn, lâu lâu bà lại kéo mi mắt lên để ngó qua cửa kiếng. (Năm 1965, khi về dạy học tại Bạc Liêu, tôi có đi với hai người bạn đến Nhà lớn coi chiếc Mercedes nói trên. Nó màu đen, nước sơn vẫn còn tốt do ít đi nhưng hình vuông, đầu xe cũng vuông và các bánh xe có căm chứ không phải có mâm như xe bây giờ, trông rất cổ điển. Cũng còn cả chiếc xe Ford nữa. Không hiểu hai chiếc xe đó bây giờ ra sao – ĐD). Buổi tiệc mừng cậu Ba vinh quy bái tổ được chia làm hai phần. Phần thứ nhất, là lễ cúng cửu huyền tạ ơn gia tiên đã phù hộ cho quý tử nhà họ Trần ăn học thành tài. Buổi tiệc này nấu theo kiểu Tàu, rước đầu bếp Chợ Lớn xuống nấu, để thết đãi thân bằng quyến thuộc và kẻ ăn người ở trong nhà. Buổi tiệc thứ hai được nấu theo kiểu Tây, dùng để thết đãi quan Chủ tỉnh cùng các bộ sậu lớn bé trong tỉnh, đồng thời thết đãi các quan chức tai to mặt lớn từ Sài Gòn xuống và các tỉnh tới, trong đó có kỹ sư Bùi Quang Chiêu là một nhân vật rất nổi tiếng đương thời. Những người biết tiếng Pháp kể rằng, trong buổi tiệc hôm ấy quan Chủ tỉnh đọc diễn văn khen ngợi ông Trần Trinh Trạch đã lo cho con ra nước ngoài ăn học để tiếp thu văn minh thế giới, góp phần cùng với mẫu quốc khai hóa văn minh Bạc Liêu…
- Cậu Ba “trấn nhậm” điền Bàu Sàng: Nhưng rồi cuối cùng thì việc cậu Ba không có bằng cấp gì hết cũng lộ ra khiến ông Lớn Trạch nổi giận. Ông cắt đặt cho cậu Hai Đinh và cậu Tám bò trông coi một số điền sản gồm nhà máy xay lúa Hậu Giang, các sở muối Vĩnh Châu và các sở điền ở Sóc Trăng, Cổ Cò…, còn cậu Ba Huy thì phải lui tới trông coi sở điền Vĩnh Hưng có diện tích 34,000 công và sở điền Bàu Sàng 36,000 công. Lúc ấy, ruộng tốt cho thuê 1.5 giạ một công, ruộng xấu thì 1 giạ. Có tá điền thuê tới vài trăm hoặc 1,000 công (cứ 10 công là 1 mẫu tây, tức 1 ha). Tới mùa thâu lúa ruộng, lúa đổ trong nhà lầu không chở về Bạc Liêu kịp, các tá điền phải chia ngày ra mà nạp. Cậu Ba vô trong điền bằng ghe hầu. Đó là loại ghe ở mũi có chạm hình rồng phượng; trong ghe có sạp gụ, có bàn đèn để hút á phiện và uống trà. Cậu Ba sống theo dân Tây, không hút á phiện nhưng vô trong điền cậu cũng ăn bận rất bảnh: quần tây, áo sơ mi mang cra-vát, đội nón nỉ, đi giày da, tay cầm cây can. Cậu đi coi sổ sách điền đất mà cứ như đi chơi, chở theo đào hát hoặc nhân tình nhân ngãi vô trong nhà lầu sống bù khú vài ba ngày. Chuyện thâu lúa ruộng cậu để mặc cho các tằng khạo lo, còn cậu là để họ hỏi một vài điều cần thiết khi họ không giải quyết được. Cậu Ba vô Bàu Sàng thường vào 2 dịp: cúng Rằm tháng Bảy và cúng Kỳ yên. Cúng Rằm tháng Bảy gồm các thứ bánh, trái cây; cỗ bàn tức đồ mặn bầy đầy sân nhà lầu. Cúng xong, cả trẻ con lẫn người lớn cùng xô nhau vào cướp giựt kêu là “giựt giàn”. Ở ban công trên lầu, cô Hai Lưỡng lúc ấy còn nhỏ, mới 9-10 tuổi, đứng bên một càng-xé đựng đầy bạc cắc, bốc liệng xuống sân cho mọi người tranh nhau lượm. Cô thích chí cười vang, cả cha cô tức cậu Ba Huy cũng cười vang. Niềm vui của cậu đôi khi chỉ đơn giản như vậy chứ không phải lúc nào cũng ghê gớm, “đáng mặt yêng hùng”! Tới lễ cúng Kỳ yên (tức cúng cầu an, thường là vào tháng Giêng âm lịch và kéo dài nhiều ngày). Tháng Giêng còn đang trong mùa nắng, có lần cậu Ba kêu tá điền vác đất đắp thành cái nền thật lớn, trên đó dựng 5 dãy nhà lá, chia thành từng căn cho mọi người bày ra bán hàng tạp hóa giống như hội chợ. Cậu Ba rước về 3 gánh hát: hát Việt, hát Khmer, hát Tàu (gọi chung là hát Dù kê). Tiếng nhạc ngũ âm, tiếng trống cầm chầu, tiếng sáo, tiếng đờn cò réo rắt, ò e vang động. Dân chúng ở các làng lân cận cũng náo nức kéo tới coi đông nghịt khiến cái sân như muốn nứt ra. Đặc biệt, vốn tính rộng rãi, cậu Ba sai giết heo, nấu cơm, những người đi coi hễ đói cứ việc lấy cơm mà ăn, bất kể người trong điền hay người ngoài điền. Cậu lại tổ chức một cuộc “Đấu xảo sắc đẹp”. Các cô gái quê có gì bận nấy, chủ khảo tất nhiên là cậu Ba còn giám khảo là các tằng khạo. Giải thưởng hạng nhứt gồm một chiếc kiềng vàng và một chiếc cà rá; hạng nhì gồm một sợi dây chuyền vàng và một xấp vải v.v… Trong cuộc thi “hoa khôi đồng quê” này, cậu Ba chấm được 4 cô nên phát giải tới hạng tư. Cô hạng nhứt là con của tằng khạo Tư. Cô trở thành vợ nhỏ của cậu nhưng cậu không đem về Nhà lớn mà xây cho cô một ngôi nhà ở trong đồng. Năm sau, cô sanh cho cậu một đứa con trai. Cậu cưng cô lắm, tháng nào cũng chu cấp cho cô tiền bạc nuôi con, tiêu xài không hết. Nhưng sau, cô vô ý để đứa trẻ đó té xuống mương, chết đuối, cậu ghét không thèm nhìn mặt cô nữa. Cô buồn, lấy chồng khác làm nghề thợ hàn ở chợ Bạc Liêu. Rồi cô bị bệnh, chết, cậu có cho tiền chôn cất. Nói chung, tá điền không ai ghét cậu Ba Huy. Cậu không đòi nợ ai bao giờ cả. Những người nghèo quá, năn nỉ, “kể khổ” với cậu, chẳng những cậu xóa luôn nợ mà còn cho thêm tiền để sống…
- Cậu Ba thăm ruộng bằng máy bay: Một sự kiện làm chấn động các tỉnh miền Tây là vào những năm 30-40, cậu Ba đi thăm ruộng bằng máy bay. Về chuyện Trần Trinh Huy đặt mua máy bay bên Pháp, tờ báo Le Courrier Saigonnais (Người Đưa Thư Sài Gòn) loan tin: “Công tử Bạc Liêu mua máy bay và làm sân đáp trong điền của ông tại Bàu Sàng, Cà Mau”. Không chấn động sao được khi cả Việt Nam lúc ấy chỉ có 2 người mua máy bay là vua Bảo Đại và Ba Huy. Đó là loại máy bay thể thao, nhẹ, có thể chạy được trên nền đất nện. Có người nói cậu Ba Huy mua máy bay rồi về thuê phi công Pháp lái. Nhưng ông Ba Hòa, quản gia nhà họ Trần, thì nói cậu Ba tự lái lấy, chỉ thuê một thợ máy từ bên Pháp sang mà thôi. Có một giai thoại nói rằng sau khi Ba Huy đi thăm ruộng bằng máy bay thì ông Huyện Kệ, một điền chủ ở Bạc Liêu, cũng bắt chước, bèn mướn máy bay Pháp chở mình đi thăm ruộng. Khi máy bay bay lên cao, ông sợ quá “tè” ra trong quần, từ đấy thôi không dám mướn máy bay nữa. Việc lái máy bay của Công tử Bạc Liêu đã gây nên những chuyện tức cười. Một lần, đi thăm sở điền Vĩnh Châu, thấy bãi cát ven biển bằng phẳng, cậu cho máy bay đáp xuống. Không ngờ cát lún, máy bay chúi đầu xuống cát, cậu Ba suýt chết, chân bị thương nặng, sau đó phải huy động trâu kéo máy bay lên. Lại một lần khác, bay qua thăm điền Rạch Giá, cậu Ba hứng chí bay ra biển Hà Tiên chơi, cứ bay miết đến khi nhìn kim báo thấy hết xăng, cậu vội vàng tìm chỗ đáp khẩn cấp. Xuống đất, ra khỏi máy bay thấy người ta bu đến coi, nói tiếng ọ ẹ lạ hoắc, cậu Ba hoảng hốt biết mình đã bay ra tận nước ngoài. Sau đó thì biết máy bay đáp ở Xiêm La (Thái Lan). Trần Trinh Huy bị chính phủ Xiêm bắt giữ và phạt 200 ngàn giạ lúa. Ông Lớn Trạch phải chở một đoàn ghe lúa thật dài qua Xiêm để chuộc cậu quý tử về!
- Hắc công tử và Bạch công tử với giai thoại đốt tiền: Như phần trên đã nói, trong giới làng chơi lúc ấy có một nhân vật tên là George Lê Văn Phước (nhiều sách ghi là Phước Georges), con ông Đốc phủ sứ Lê Văn Sảng, một đại điền chủ ở Mỹ Tho. Phước cũng đã từng du học bên Pháp và vô dân Tây. Khi qua Tây học, Phước cũng ăn chơi tung trời và sai một người thân tín đi học giùm mình. Người này đậu cử nhân Luật rồi khi về nước cũng làm tới chức Đốc phủ sứ (tức thị trưởng hay phó thị trưởng một thành phố lớn) trong khi Phước chẳng có bằng cấp gì. Phước có nước da trắng, nên mọi người gọi là Bạch công tử để phân biệt với Hắc công tử Trần Trinh Huy ở Bạc Liêu. Phước lập ra gánh hát Phước Chương nổi tiếng và chọn cô đào tài sắc Phùng Há làm đào chánh. Vợ Phước sau này là danh ca Sáu Ngọc Sương nổi tiếng một thời. Phước chết năm 1954 do bệnh. Hắc công tử và Bạch công tử là hai tay kỳ phùng địch thủ, chơi với nhau nhưng không vừa mày vừa mặt với nhau. Một hôm, gánh hát Phước Chương của Bạch công tử về Sóc Trăng hát, Bạch công tử bèn mời Hắc công tử lên xem. Vãn hát, Bạch công tử tổ chức ăn nhậu để thết đãi Hắc công tử, trong đó tất nhiên có cô đào thanh sắc Phùng Há và có cả cô Ba Trà là một trang tuyệt sắc giai nhân lừng lẫy danh tiếng trong giới ăn chơi ở Sài Gòn, từ trên đó xuống. Đang ăn, cô đào Phùng Há tháo chiếc nhẫn kim cương của mình đưa cho cô Ba Trà coi. Bất ngờ, chiếc nhẫn rơi xuống dưới gầm bàn, cô cúi xuống nhặt. Bạch công tử muốn “giựt le”, bèn móc tờ giấy con công (giấy bạc 5 đồng) đốt soi cho cô tìm. Muốn chơi tay trên và cũng muốn “giựt le” trước hai người đẹp, Hắc công tử bèn móc tờ giấy bộ lư (giấy 100 đồng) đốt soi xuống dưới. Ngay ngày hôm sau, cả châu thành Sóc Trăng đồn ầm lên rằng Công tử Bạc Liêu đốt tiền để… soi cho Bạch công tử kiếm chiếc nhẫn! Và câu chuyện đó trở thành một giai thoại cho đến ngày nay. Bị mất mặt, Bạch công tử tức lắm, bèn nói nhỏ với Hắc công tử: - Nếu toa muốn thi gan thì tụi mình hẹn lúc nào gặp nhau, mỗi đứa một ký đậu, một ký đường rồi dùng tiền mà nấu chè xem nồi của đứa nào sôi trước. Toa dám không? Hắc công tử nói: - Dám chớ sao không dám! Cuộc thi diễn ra tại ngôi Nhà lớn ở Bạc Liêu và Hắc công tử thua vì nồi chè của Bạch công tử sôi trước. Nhưng thôi, ông Phan Kim Khánh cháu của Công tử Bạc Liêu cho biết chuyện này không có thật, chúng ta không nói tới nữa.
- Công tử Bạc Liêu đánh bạc: Vào những năm 30-40, Sài Gòn là đất làm ăn nhưng cũng là nơi ăn chơi, trụy lạc. Về cờ bạc, nổi tiếng nhất là Kim Chung và Đại Thế Giới (Casino Grand Monde, lớn nhất Đông Dương, thành lập năm 1937, ở đường Galliéni, tức Trần Hưng Đạo sau này; còn Kim Chung thì nhỏ hơn, cũng thành lập năm 1937, ở gần chợ Cầu Muối). Cái máu cờ bạc của Công tử Bạc Liêu cũng khá mạnh mẽ. Trong sách “Bạc Liêu xưa và nay” của tác giả Huỳnh Minh nói rằng, nhóm công tử Bạc Liêu có người dám đánh một ván bài tới 30,000 đồng. Ván bài đó chính là của Công tử Bạc Liêu Trần Trinh Huy ở sòng bạc Đại Thế Giới. Hôm ấy, trên chiếu bạc có cô Ba Trà. Tên thật của cô là Trần Ngọc Trà, người làng Tân An, quận Cần Đước, tỉnh Long An. Do hoàn cảnh nghèo nàn, năm 14 tuổi cô bị mẹ cô gả cho Tây rồi trở thành một gái làng chơi hạng sang. Cuộc sống nhung lụa đã biến cô thành một trang tuyệt sắc giai nhân nhưng cũng là tay đam mê cờ bạc hạng nặng. Học giả Vương Hồng Sển đã từng viết: “Thưa cô Ba, dù cô đánh bạc đến thế nào chăng nữa, trong mắt tôi và trong linh hồn tôi cô vẫn là một trang khuynh nước khuynh thành…”. Đúng là nhan sắc của cô Ba Trà đã làm sạt nghiệp không biết bao nhiêu người. Lúc ấy cô đang sống với triệu phú Lương Mái Chín, người sáng lập ra sòng bài kiêm khách sạn Nguyệt Tiên Cung. Để gây ấn tượng với người đàn bà nhan sắc tuyệt trần đó, Công tử Bạc Liêu quyết định đánh ván bài 30,000 đồng trong khi giá lúa có 1.7 đồng/giạ và lương Thống đốc Nam kỳ chưa tới 3,000 đồng/tháng. Khi Công tử Bạc Liêu đập xấp tiền xuống chiếu và nói 30,000 đồng, tất cả các con bạc lẫn người tài-pán đều sững sờ. Kết quả, tài-pán không dám mở bát ván bài đó mà báo với Sáu Ngọ là chủ sòng bạc. Sáu Ngọ đến, cười cười xin lỗi cậu Ba là cậu đánh lớn quá, sự chênh lệch giữa bên chẵn với bên lẻ quá cao, nhà cái không dám mở. Từ đấy Sáu Ngọ chơi thân với Ba Huy và tiếng tăm Công tử Bạc Liêu vang dội trong giới cờ bạc. Chính Sáu Ngọ đã làm mối cô Ba Trà cho Ba Huy, và Sáu Ngọ được điều lợi: hễ có mặt Ba Huy và cô Ba Trà là sòng đánh rất lớn. Công tử Bạc Liêu mê ca sĩ trẻ: Đó là vào khoảng giữa thập niên 60, Công tử Bạc Liêu 65 tuổi, sức khỏe đã xuống. Tuy nhiên, thói ăn chơi và phong độ kẻ cả thì không vì thế mà thay đổi. Một đêm, đến chơi tại một nhà hàng sang trọng có ca nhạc, Công tử Bạc Liêu bỗng sửng sốt trước một ca sĩ trẻ tuổi rất đẹp và có giọng hát kỳ lạ nghe đến não nùng. Ba Huy hỏi cậu hầu bàn: “Ai vậy?”. “Dạ thưa cô AA, ca sĩ đang ăn khách mới đến làm ở đây”. (Các sách đều không nêu đích danh vì ca sĩ này vì cổ hiện còn sống và đang ở hải ngoại). Ba Huy cho cậu hầu bàn một tờ giấy bạc: “Lát cậu nói với cô AA là có Công tử Bạc Liêu muốn mời cổ tới bàn, cụng với cổ một ly rượu làm quen”. Xong, Công tử Bạc Liêu tự tin ngồi đợi. Nhưng AA không tới. Hết bản nhạc đó rồi tới một vài bản khác, xong phần hát của mình, cô ra về. Lúc đi ngang qua khán phòng, cô chỉ mỉm cười hơi cúi đầu chào các khách quen khi họ giơ ly lên cổ võ cô. Gần như cô không thèm biết tới cái tên Công tử Bạc Liêu là ai cả. Hôm sau và hôm sau nữa cũng vậy. Ba Huy tức lắm, cậu bảo chú hầu bàn mời người quản lý đến và đưa cho ông ta một xấp tiền: “Tôi là Công tử Bạc Liêu, có lẽ ông không biết tôi. Tôi nhờ ông “bo” giùm cho cô AA và ra lệnh cho cổ xuống đây uống với tôi một ly rượu”. “Có, tôi có biết tiếng ông nhưng ca sĩ rất ít khi uống rượu với khách tại vì họ muốn giữ giọng”. “Không uống cũng được nhưng ít nhứt cổ cũng xuống bàn tôi, nhấp môi với tôi một chút cho tôi đỡ mất mặt”. Với sự năn nỉ gần như ra lệnh của ông quản lý, AA có tới thật nhưng chỉ đứng trước bàn, hơi gật đầu chào Công tử Bạc Liêu với nụ cười xã giao, vô cảm, rồi định đi sang bàn khác. Ba Huy mời rượu nhưng nàng không uống, chỉ đưa xa xa trên môi rồi lại bỏ xuống, cúi đầu chào cậu lần nữa và sang bàn khác. Cậu Ba tức lắm. Phải chinh phục con nhỏ này bằng được chứ mình mê nó quá, cứ nghĩ tới thân hình mảnh mai với tà áo dài gọn gàng, đẹp như trong mơ của nó thì mình không chịu nổi. Sáng hôm sau, Ba Huy gọi điện thoại hẹn gặp ông chủ nhà hàng rồi tự mình lái chiếc Mercedes đến nhà riêng thương lượng với ông ta. - Tối nay tôi muốn bao nguyên nhà hàng của ông một đêm. - Thưa chắc ông muốn mở tiệc khoản đãi bạn bè? - Không. Tôi muốn tối nay nhà hàng của ông đóng cửa, miễn tiếp khách, chỉ dọn cho một mình tôi một bàn tiệc thật sang nhưng với điều kiện phải có ca sĩ AA hát. Cổ ca cho một mình tôi nghe. Lợi tức một đêm của nhà hàng bao nhiêu tôi sẽ trả đủ. Ông chủ nhà hàng ngần ngừ: - Tôi biết ông là Công tử Bạc Liêu nhưng nói thật, doanh số của nhà hàng chúng tôi một đêm rất cao, cỡ 100 ngàn đồng lận, không biết ông có đồng ý trả hay không. (Vàng lúc ấy giá 12,000 đồng/lượng). Cậu Ba nói: - Không sao, tôi sẽ thanh toán cho ông đủ 100 ngàn đồng ngay bây giờ, nếu có gì cần thì sẽ tính thêm sau. Và cậu đặt xấp tiền 100,000 đồng trước mặt ông chủ nhà hàng như trước đây cậu đã đặt xuống chiếu 30,000 đồng khi đánh bạc tại Đại Thế Giới. Đêm hôm ấy, dù đã được báo trước nhưng ca sĩ AA cũng thấy ngạc nhiên. Cả một nhà hàng rộng lớn chỉ có một bàn tiệc, một thực khách cùng với ban nhạc. Cô đứng trên sân khấu, hát hết bản nọ tới bản kia cho một mình ông nghe. Ông lắng tai, mắt nhìn chăm chăm như muốn uống từng hơi thở của cô quên cả mọi chuyện. Nhưng cũng từ hôm ấy ca sĩ AA nhìn “ông già” Công tử Bạc Liêu với con mắt khác. Hằng đêm ông tới, hát xong cô đều xuống mỉm cười với ông và nâng ly nhấp môi một chút rượu không vào tới trong cổ họng vì ca sĩ không được uống rượu để giữ giọng. Tình nghệ sĩ chỉ có thế nhưng như thế cũng đủ an ủi cho ông lắm rồi. Con người, dù là Công tử Bạc Liêu, thì cũng phải chấp nhận thế yếu của tuổi về già. Người ta nói rằng khi báo chí đăng tin Công tử Bạc Liêu qua đời, ca sĩ AA có đến ngôi biệt thự ở đường Nguyễn Du thắp nhang cho ông. Ôi, cao quý thay con người đó, thật không uổng công Công tử Bạc Liêu đã mê say cô. Công tử Bạc Liêu qua đời Người ta nói, cuối đời Công tử Bạc Liêu thiểu não lắm. Kinh tế thì suy sụp (bởi vì tiêu xài như cậu Ba Huy, tiền bạc nào mà còn lại được), tình cảm gia đình lỏng lẻo và ông lại mê ca sĩ AA nhưng cô đối với ông rất có giới hạn, ông không làm gì được. Đầu năm 1973, ông đổ bệnh. Gia đình đưa ông vào Bệnh viện Grall của Pháp ở đường Đồn Đất điều trị nhưng rồi ông mất. Nghe nói ông qua đời do bệnh thận, thật đúng với câu ông bà ta ngày xưa đã nói: “Đa tửu hại tâm, đa dâm hại thận”. Lúc Công tử Bạc Liêu mất, gia cảnh đã suy sụp lắm nhưng mọi người cũng mướn một cỗ xe song mã chở thi hài ông đi một vòng Sài Gòn để ông “ngắm” nơi ông đã từng một thời vang bóng rồi mới đưa lên xe tang về Bạc Liêu, chôn tại khu đất “Trần gia chi mộ” ở Cái Dầy. “Cậu Ba” Trần Trinh Huy đã mất cách đây đúng 40 năm (1973-2013) nhưng cái danh “Công tử Bạc Liêu” vẫn còn tồn tại và được nhiều người biết đến. Bây giờ chúng ta thử xem các con của ông ra sao. II. Con của Công tử Bạc Liêu
Hôm mồng 4 Tết vừa rồi, tôi có chút công chuyện xuống Bạc Liêu, vô tình đi uống cà phê với người bạn tại vườn “Cà phê Công tử Bạc Liêu”, bất ngờ gặp anh Trần Trinh Đức, người con trai thứ hai của Công tử Bạc Liêu, đang đi lang thang ở đấy. Tôi xin nhắc lại, Công tử Bạc Liêu có nhiều dòng con, bà thứ nhất có người con gái tên cô Hai Lưỡng, làm luật sư ở bên Pháp; bà vợ đầm có người con trai, cũng ở bên Pháp, cả hai người con này nay đã lớn tuổi. Như vậy, nếu không tính bà vợ đầm thì bà thứ hai có 2 người con trai là anh Trần Trinh Nhơn, 62 tuổi, và anh Trần Trinh Đức, 56 tuổi (xin coi hình chụp chung với Đoàn Dự hôm đó); bà thứ ba có 4 người con tên Hoàn, Toàn, Trinh, và Nữ. Còn bà thứ tư, tức bà “vợ trẻ”, có 2 người con, một trai một gái, nay ở Vũng Tàu, đời sống tương đối khá giả nhưng không còn liên lạc gì với những người ở Bạc Liêu nữa. Nói chung, cả 6 người con của cậu Ba Huy hiện ở Bạc Liêu (Nhơn, Đức; Hoàn, Toàn, Trinh, Nữ) chỉ có cô con gái út là cô Nữ làm y tá tại Bệnh viện Bạc Liêu là đời sống tạm ổn còn những khác nghèo lắm, “bần cố nông” hạng nặng, nghèo không chịu nổi. Ví dụ anh Trần Trinh Đức, trước chạy xe ôm, vợ đi bán vé số, bây giờ anh bị tai biến mạch máu não phải nằm một chỗ, mà căn nhà nhỏ tí teo giống như cái chòi lại phải đi thuê mỗi tháng cũng tốn vào đấy mất 300 ngàn, sự sống của cả gia đình với 3 đứa con chỉ trông chờ vào tiền đi bán vé của vợ anh mà thôi. Ở Việt Nam, hễ nghèo là đi chạy xe ôm và bán vé số, không khác hơn được. Anh Đức trước đây cũng chạy xe ôm, về sau ông chủ nhà hàng Hồ Nam thương tình con cháu Công tử Bạc Liêu nên cho anh làm bảo vệ trong nhà hàng với số lương ưu đãi 4 triệu đồng/tháng, anh mừng lắm. Nhưng tình hình kinh tế suy thoái, nhà hàng vắng khách, ông cho anh nghỉ việc. Vợ anh trước buôn bán lặt vặt kiếm ăn phụ với chồng, nhưng bị bệnh, phải bán chiếc xe được 3 triệu bạc lấy tiền vô bệnh viện, bây giờ anh lang thang trong ngôi vườn “Cà phê Công tử Bạc Liêu” của nhà nước, tùy khách du lịch ai cho được đồng nào thì cho, ngay tiền thuê căn nhà nhỏ xíu thuộc hạng bình dân ở bên kia sông mỗi tháng hết 500 ngàn nhiều lúc cũng không có, tình trạng hết sức tội nghiệp. Tôi hỏi: “Nghe báo Tuổi Trẻ đăng tin anh được chính quyền tỉnh cấp cho một căn nhà cấp 4, chuyện đó ra sao?”. “Có, đúng là có căn nhà thiệt nhưng không phải tỉnh cấp mà là họ xây 40 căn nhà cho dân mướn. Họ dự định cho tôi thuê một căn nhưng không phải trả tiền, vợ chồng tôi mầng lắm. Kể ra bà con anh em tôi bị tịch thu hết nhà cửa, ruộng đất từ 75 đến nay song cuối cùng chuyện cũng có hậu”. “Các căn nhà đó đã xây xong chưa? Bao giờ thì anh được ở?”. Anh Đức trả lời hết sức phấn khởi: “Có, xây xong rồi, những người mướn cũng đã đến ở rồi, tụi tôi chỉ chờ có giấy phép chánh thức của tỉnh là sẽ dọn tới”. Từ Tết đến nay, hơn ba tháng trời trôi qua, mấy hôm trước tôi lại có chuyện xuống Bạc Liêu – đem tiền của độc giả xuống giúp người nghèo. Lại gặp anh Đức, tôi hỏi đã dọn đến nhà mới chưa, nét mặt anh hơi buồn: “Chưa, chắc không dọn tới được bởi vì ai cũng sợ trách nhiệm, chẳng ai chịu ký cho tui đến ở. Nhà thì họ mướn hết rồi, tui hổng có phần”. Thế là hết cái chuyện bánh vẽ, chẳng ra sao cả. Theo tôi nghĩ, đời ông, đời cha của những người con Công tử Bạc Liêu đúng là giàu thật hoặc ăn chơi khủng khiếp thật, nhưng xét cho cùng, họ cũng là những người tốt, chẳng có tội tình gì cả. Nay, theo cái luật kỳ lạ của trời đất: “Đời cha ăn mặn, đời con khát nước”, con cháu của họ thậm chí nghèo đến mức không có lấy một tấc đất để cất chiếc chòi làm chỗ dung thân. Tình trạng của họ hết sức tội nghiệp. Lại càng tội nghiệp hơn nữa, như anh Trần Trinh Đức chẳng hạn, đang đi lang thang hằng ngày kiếm miếng ăn bằng tiền bố thí của khách du lịch ngay trên khu vườn “Cà phê Công tử Bạc Liêu” rất đẹp của cha ông anh ta ngày trước.
Ông Trần Trinh Đức (67 tuổi), con trai thứ 3 của Công Tử Bạc Liêu Trần Trinh Huy.
Ngôi nhà của Công tử Bạc Liêu trở thành khu thăm quan ở 15 Điện Biên Phủ, TP Bạc Liêu (Ảnh: XH)