Tóm tắt:
Bà Nguyễn Kim Chung (Bà Năm Sa Đéc)
Quê quán: làng Tân Đông, Sa Đéc (nay thuộc xã Tân Khánh Đông, thị xã Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp)
Năm sinh: 1907
Năm mất: 1988
--------------------------------------------------------------------------------
Bà Nguyễn Kim Chung sinh năm 1907 tại làng Tân Đông, Sa Đéc (nay thuộc xã Tân Khánh Đông, thị xã Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp).
Vốn xuất thân trong gia đình có truyền thống nghệ thuật hát bội, bà được thân sinh đặt tên Kim Chung là nhằm mong khi lớn lên con mình sẽ trở thành như cô Năm Chung một đào hát bội nổi tiếng đương thời.
Ngay từ nhỏ, bà đã được bồi dưỡng nghệ thuật tuồng. Những năm 1930 – 1945, bà trở thành một đào hát giỏi trong các gánh: Trần Đắt, Bầu Bòn, Huỳnh Kỳ, Song Phụng v.v.. Bà đóng rất nhiều vai, được khán giả đương thời yêu thích, trong đó có vai Mạnh Thị trong vở Mạnh Lệ Quân thoát hài và nhiều vai khác trong các vở: Phụng Nghi Đình (Vai Lữ Bố ), Ngũ biến báo phu cừu (vai cùi và điên, hát bài hành khất) v.v.. Bà được mọi người mến mộ gọi thân thương “Cô Năm Sa Đéc”, “Bà Năm Sa Đéc”.
Giữa năm 1947, Cô Năm Sa Đéc về làm vợ ông Vương Hồng Sển, hai ông bà sống ở căn nhà thuê “xóm Cù Lao”, đường Võ Duy Nguy, Phú Nhuận (Sài Gòn). Sau một thời gian, bà trở lại sân khấu với sự động viên khuyến khích của chồng.
“Cô Năm Sa Đéc” là một nghệ sĩ có tài, từ sân khấu hát bội cho đến sân khấu cải lương, đều có những thành công, góp phần phát triển nghệ thuật sân khấu miền Nam trong những năm 30 - 60 của thế kỷ 20... Trên sâu khấu kịch nói, rồi cả điện ảnh, người nữ diễn viên “Bà Năm Sa Đéc” đều có những đóng góp đáng kể.
Đến với điện ảnh, sức làm việc của bà những năm cuối đời, hầu như không giảm sút. Năm 1987, vai bà Hai Lành trong phim Phù Sa, lúc bà đã đúng “bát tuần”.
Năm 1986, bà về Nha Mân, Cái Tàu quay “Nơi bình yên chim hót” của đạo diễn Việt linh; năm 1985, bà vào Mộc Hóa để quay “Mùa nước nổi” của đạo diễn Hồng Sến; năm 1984, bà ở Thuận Hải quay “Con thú tật nguyền” của Hồ Quang Minh và năm 1983, quay “Cho đến bao giờ” của đạo diễn Huy Thành.
Bà còn tham gia nhiều phim khác nữa. Lúc thì đảm nhận một bà lão nông thôn, đào hầm bí mật, lén lúc đổ từng thùng đất lúc vắng người (Cho đến bao giờ). Lúc thì về Đồng Tháp Mười, bà băng đồng gần cây số để đến chỗ quay, hoặc ngồi xuồng suốt buổi, cùng cả đoàn ăn cơm vắt. Đến giờ quay, dù trời còn mưa, xe chưa đến rước, bà vẫn đi xích lô đến hiện trường và luôn cùng cả đoàn chịu nắng suốt buổi để quay, dù trong người không được khỏe lắm (Phù Sa). Sức làm việc, lao động nghệ thuật không mệt mỏi của bà thể hiện niềm say mê vô bờ bến, sự yêu mến nghề nghiệp tuyệt vời.
Nhớ đến Bà Năm Sa Đéc, người xem không chỉ nhớ đến những nhân vật bà Hội đồng chanh chua, đanh đá dữ dội trên sân khấu kịch nói mà còn nhớ đến hình tượng bà lão nông thôn Nam bộ đôn hậu, hiền lành và giàu lòng nhân ái – yêu con người, yêu thiên nhiên v.v. cũng như con người thật của bà yêu thiết tha quê hương sông Tiền, sông Hậu.
Ở bà Năm, không chỉ thể hiện tài năng của một nghệ sĩ diễn xuất, mà còn là hiện thân của sự lao động miệt mài, không mệt mỏi, một đức độ chân chính của nhân cách người diễn viên trên sàn diễn cũng như trong cuộc đời.
Bà Năm Sa Đéc – Nguyễn Kim Chung mất năm 1988. Bà ra đi, để lại sự thương tiếc cho mọi người đối với một nghệ sĩ tài hoa, đức độ.
Đức Lang Quân của Bà Năm SADEC : NHÀ HỌC GIẢ VƯƠNG HỒNG SẾN
Chuyện tình cụ Vương Hồng Sển
Ngôi nhà cổ ở Sài Gòn nơi cụ Vương Hồng Sển viết hồi ức về "cuộc tình tàn" với "em Tuyết". Ảnh: Diệp Đức Minh
Ngày 9/12/2006, kỷ niệm 10 năm ngày mất nhà văn hoá Vương Hồng Sển, tại trụ sở mới của tạp chí Xưa và Nay (181 Đề Thám, quận 1, TP.HCM) đã cử hành lễ tưởng nhớ cũng như trưng bày một số hình ảnh, hiện vật của cụ Vương với sự tham gia đông đảo các nhà nghiên cứu, nhà văn, nhà báo, nhà sưu tập cổ vật trong nước. Trong dịp "đốt lò hương cũ nhớ người xưa" này đã có nhiều phát biểu nêu bật những đóng góp của cụ Vương đối với sự nghiệp văn hoá nước nhà. Riêng về cuộc sống tình cảm của cụ, nhà nghiên cứu Trần Đình Sơn và một số vị khác có nhắc đến nữ nghệ sĩ Năm Sa Đéc và hình bóng của một "em Tuyết" đẹp tuyệt vời đã làm rung động trái tim của cụ từ thuở thanh xuân cho tới lúc bạc đầu. Vậy "em Tuyết" là ai?
Kỳ 1: Nhà xưa mái Tuyết...
Cô Dương Thị Tuyết đẹp có tiếng ở vùng chợ Sóc Trăng vào những năm cuối thập niên 20 của thế kỷ trước. Đẹp đến nỗi cụ Vương Hồng Sển gọi bằng mấy tiếng "sắc nước hương trời" và vẻ tươi mát trẻ trung như hoa hàm tiếu sánh với những nụ "hoa đào vừa hé". Ngoài sắc đẹp được xếp vào hàng hoa khôi trong vùng, cô Tuyết lại là cháu nội của bà phủ An nức tiếng giàu có với 2.000 mẫu ruộng cò bay thẳng cánh và gia sản sáng loà với nhà cao cửa rộng mà tiếng đồn phú quý lan khắp Sài Gòn. Thế nhưng có hai điều đã đặt "em Tuyết" (chữ cụ Vương Hồng Sển dùng) trước ngã năm ngã sáu đường đời.
Một là, bà phủ An do một chướng duyên nào đấy đã "không nhìn" cô cháu nội (Tuyết) của mình trong một thời gian dài, lúc đó cô Tuyết vừa đang trong độ tuổi trăng tròn. Hai là, ba má cô Tuyết rất ham đánh bạc, tiền của trong nhà đội nón ra đi khiến cho "nợ thiếu tứ giăng". Trong tình cảnh như vậy, cô Tuyết như một đoá hoa hàm tiếu nở hé trên đất nóng. Chẳng thiếu gì người mơ ước được đem những giọt nước mát tưới cho đời Tuyết được tươi, trong số đó có một thanh niên 26 tuổi.
Thanh niên đó chính là Vương Hồng Thạnh, sinh năm Nhâm Dần (1902) tại Sóc Trăng (cùng quê với Tuyết). Mấy chữ Vương Hồng Thạnh (đọc theo âm Hán Việt) khi làm khai sinh (ghi theo chữ Quốc ngữ) mới thành Vương Hồng Sển. Chữ Sển, theo một số người hiểu chuyện, thì không có nghĩa gì, mà chỉ do đọc chệch âm "Thạnh" mà ra. Tới năm 17 tuổi, chàng Vương rời Sóc Trăng lên Sài Gòn học Trường Chasseloup Laubat tức Trường Jean Jacques Rousseau sau này (nay là Trường Lê Quý Đôn, quận 3, TP.HCM). Bốn năm sau, tốt nghiệp Thành chung lúc 21 tuổi (1923). Đến năm 23 tuổi đã cưới vợ, không phải "em Tuyết" mà là cô Trần Thị Th. nhưng chỉ ở với nhau 9 tháng rồi ly dị.
Khi cuộc hôn nhân đầu tiên trong đời khép lại, chàng Vương mới mở ra một cánh cửa mới nhằm đến "em Tuyết" mà Vương thương yêu nồng nàn và cũng đau khổ nhiều năm vì Tuyết. Bấy giờ, chàng Vương 26 tuổi và cô Tuyết mới 17 tuổi (1928) đã làm lễ thành hôn và sống chung với nhau trong 19 năm trước khi chia tay. Lúc mới gặp nhau, chàng Vương đưa "em Tuyết" từ chốn tha hương về lại quê Sa Đéc và sau này trong một hồi ức đã kể lại đoạn trường tứ cố vô thân ấy như sau: "Rồi từ ngày anh (Vương Hồng Sển) đưa em (Dương Thị Tuyết) về tỉnh Sa Đéc, mười lượng vàng của mẹ anh mãn phần trối để lại, anh dâng cho nhạc phụ, nhạc mẫu làm lễ sính, ông bà "nướng" tất cả trong sòng me (cờ bạc), cầm thế cho nhà Tăng Quang Vỉ, 10 lượng thế lấy 600 đồng bạc đầm xoè, khi mẹ chúng ta mất rồi, người bố ghẻ hứa chuộc nhưng không giữ lời...".
Nhà xưa mái Tuyết phai tàn
Tình xưa vẫn ngõ mấy hàng song song
Tình cảnh lúc ấy thật bi đát. May sao bà phủ An thay đổi thái độ nhìn nhận "em Tuyết" làm cháu ruột của mình và cho hưởng gia tài. Khi bà phủ mất năm 1931 đã trối lại cho "em Tuyết" một gia sản không nhỏ trong đó có đôi bông 6 ly là đôi bông tai kim cương mà bà đã đeo từ lúc còn sống, nhất là "cái vòng xoàn đeo cổ, đếm 16 miếng vàng có nhận hột xoàn từ 3 đến 4 ly (nếu biết lấy xoàn này nhận làm bông tai sẽ có 160 đôi hoa tai, mỗi đôi nay giá mấy triệu đồng)". Nhưng về sau này tất cả của cải nói trên theo lời thuật của cụ Vương thì "thảy đều tiêu tan như bọt xà phòng vì em Tuyết thua bài thua bạc sạch trơn".
Còn những ngày hàn vi chân ướt chân ráo ở Sài Gòn về Sa Đéc lại rất ấm áp như cụ Vương kể: "mỗi đêm anh mê chia bài thiên cửu, dắt em theo ngồi ngoài sòng chờ anh sát phạt ba cây bài gỗ, đến khuya rủ nhau đi xơi mì chú Dầu nơi mé rạch Sa Đéc, qua năm 1931 đổi về tỉnh nhà Sóc Trăng, rồi năm 1938 đổi lên Cần Thơ, kế thuyên chuyển về đô thành Sài Gòn làm việc nơi Soái phủ Nam kỳ, có tiền dư, có sức khoẻ, ngờ đâu từ ngày xảy ra việc binh Nhựt tràn vào cõi Nam, tiếp theo là cuộc Pháp mất thuộc địa, toàn quyền Deco ux bị hạ bệ, Nhựt hất chưn Tây, để lãnh đủ hai trái bom (nguyên tử) tan tành giấc mơ Đại Đông Á, đôi ta chạy về ruộng nhà ở làng Hoà Tú, trần ai khổ cực có nhau, bỗng chuyến trở về Châu Thành Sóc Trăng, ngồi dưới sương lạnh trọn một đêm dài, về tới nhà phụ thân anh, em xán một bịnh trối chết, bịnh ban cua lưỡi trắng, chạy thầy chạy thuốc, bổn thân anh bơm thuốc, hốt bụm chất dơ, em lành mạnh rồi, em đáp xe đò lên Sài Gòn mượn tiếng đi bán xoàn để có tiền chi dụng, ngờ đâu kim cương là đại hoạ, cái bâu cổ 320 hột quý làm cho đổi trần thay đen...". Nghĩa là về sau những chuyến đi Sài Gòn của "em Tuyết" đã dần dần rời xa mối duyên "nghìn xưa đã lại" với cụ Vương để ra đi cùng một người khác tên là Th. Nỗi đau lại đến với cụ Vương trong "cuộc tình tàn" thứ hai này.
Chuyện tình cụ Vương Hồng Sển - Kỳ 2: Vĩnh biệt "em Tuyết" ở Sài Gòn
Dưới mái ngói của "vuông nhà cổ tích" này, cụ Vương đã viết những dòng khóc lóc "cuộc tình tàn" với Tuyết - ảnh: Diệp Đức Minh
Tuyết về với cõi hư không Đèn kia vẫn đỏ lửa lòng chứa chan...
Vượt qua cơn bệnh nặng, "em Tuyết" của cụ Vương hồi phục. Sắc đẹp mặn mà của người phụ nữ ở độ tuổi 30 - độ tuổi của quả ngọt đang hồi chín tới - đã làm xiêu lòng một "người thứ ba" nhỏ hơn cụ Vương đến mười mấy tuổi . Đó là Hồ Văn Th. được cụ nhắc tới trong hồi ức như một người quen biết với cụ cũng như với "em Tuyết" từ trước và là một tay chơi bài "khôn" đáo để. Cụ viết như nói với "em Tuyết" rằng: "Anh không lanh lợi như Th., mỗi dịp Tết hội nhau chơi bài, Th. ăn gian mà anh lù khù vẫn chung tiền...". Con người "lanh lợi" ấy, tuổi lại trẻ hơn cụ Vương nhiều, đã cùng "em Tuyết" hẹn hò, lao vào cơn lốc đầy ma lực của tình yêu mới. Ở lãnh địa nhiều sức hút này, Th. và "em Tuyết" ngày càng đi đến chỗ gắn bó không còn muốn xa nhau nữa. Hai người ngày càng biểu lộ rõ hơn tình cảm của họ trước mọi người. Để rồi đến một bữa nọ "em Tuyết" công khai ngỏ lời muốn chia tay với "chàng Vương" sau 19 năm chung sống (không có con).
Cụ Vương lúc đầu tìm lời khuyên nhủ, nhắc nhớ những ngày hai người đầu ấp tay gối, đùm bọc chia sẻ ấm lạnh từ đất Sài Gòn, Sa Đéc đến Cần Thơ và Sóc Trăng với Tuyết. Nhưng dường như những kỷ niệm xưa do cụ Vương khơi dậy đã không mạnh bằng tiếng nói mới thầm thì nhưng mãnh liệt từ mối giao tình với Th. nên cuối cùng, như cụ Vương viết: "Em (Tuyết) vẫn bỏ anh, mấy lần cậy anh em thương thuyết, nài nỉ cách mấy, em cũng không ở lại. Thế rồi em lấy Hồ Văn Th., nhỏ hơn anh trên mười mấy có dư, em vui duyên mới, anh tê tái, nát ruột như tương". Thế là cụ Vương đành chia tay với người vợ thứ hai này sau gần hai thập niên ăn ở với nhau. Lúc ấy cụ Vương đã 46 tuổi và "em Tuyết" 36 tuổi (1947), khi chia của cải "em biếu anh mớ sách cũ và bao nhiêu thứ đồ cổ mà em không tha thiết, em chỉ xin và anh ưng lòng để em ôm hộp sắt Fichet ra đi, hộp chứa đựng vàng vòng của phụ thân anh tự tay làm ra, và bao nhiêu của báu mà anh không màng, anh chỉ màng mối tình 19 năm âu yếm mà em đành đứt đoạn, của báu ấy xiết bao người mê thích, chỉ một anh không thích mê chút nào, thật vậy, anh chỉ mê chén xưa tuy nứt nẻ và mê ấm sứt vòi".
Đức Minh
Đúng thế thật, lúc bấy giờ cụ Vương đã say mê sưu tầm đồ cổ và sách báo. Trong những năm cuối sống với "em Tuyết" cụ đã biên soạn công trình nghiên cứu đầu tiên công bố trong kỷ yếu của Hội Khuyến học Nam Việt vào đầu năm 1943 và xuất bản Les Bleus de Hue à decor Mai Hạc par Vương Hồng Sển vào năm kế đó, 1944. Có thể tình yêu đồ cổ và nghiên cứu những giá trị quá khứ của cụ đã không hợp mấy với tâm hồn đang đòi hỏi một "hiện tại" ngọt ngào hơn của Tuyết. Song theo cụ sở dĩ "em Tuyết" khăng khăng theo mối duyên mới là vì "mấy hột kim cương tai hại... ai kia nói có xoàn là sang là quý, xin cho tôi cãi lại, tại tôi quá dễ dãi, bắt chước lối ăn ở theo Tây, để vợ quá tự do" lấy cớ mang xoàn lên Sài Gòn bán để rồi giao du rộng rãi. Một lý do nữa do cụ Vương nêu lên và viết lại về nguyên do dẫn đến thái độ chia tay quyết liệt của Tuyết là: "Một phần cũng tại Cảnh (em khác mẹ của cụ). Cảnh nhẫn tâm đổ lư hương nhạc mẫu (mẹ của em Tuyết) để em nước mắt dầm dề, rồi xảy ra chia uyên rẽ thuý từ đây, ôi nhắc lại làm chi, mọi sự đã trễ rồi. Quan (anh của Cảnh) lạy em xin tội, anh riêng nhờ chị Emille Penne giải hoà nhưng mối hoà nan giải".
Sau ngày xa "em Tuyết", cụ Vương rời Sóc Trăng trở lại Sài Gòn vào mùa thu năm 1947. Còn Tuyết lập tổ ấm mới với Th. cùng chung sống trong hơn 30 năm rồi Th. qua đời trước, hai bên cũng không có đứa con nào. Từ đó bà Dương Thị Tuyết sống đơn chiếc ở Sài Gòn cho đến ngày qua đời tại cư xá Thanh Đa. Ngày bà mất, cụ Vương được tin trễ sau khi liệm. Cụ đã vội đến viếng ngay khi hay tin và viết những dòng thắm thiết sau đây: "Em Tư (Tuyết) ôi, anh khóc em đây, thôi thôi, em Tư của anh đã không còn rồi! Chiều 6 Juillet (6.7.1992), thằng Thông đến vội vàng, cho hay tin em đã nhắm mắt từ hôm 4 và đã liệm xong rồi, trễ quá rồi và ngày mai 7.7, sẽ đưa đi hoả táng ở Cây Quéo và tro cốt sẽ gởi nơi nhà thờ. Tin như sét đánh, chẳng kịp bưng tai. Còn gì nữa đâu !". Đọc những dòng tiếp theo của một người chồng 91 tuổi rất mực yêu vợ cũ chúng ta sẽ hiểu rõ thêm tấm tình của cụ Vương dành cho bà Dương Thị Tuyết vẫn nồng nàn như thuở nào, và biết thêm những giờ phút cô đơn cuối đời khi mãn phần của một hoa khôi Sóc Trăng ngày nọ: "Em hai lần lấy chồng mà "hoa không kết quả", em sạch sành sanh, nhắn anh một lời cụt ngủn: "Gởi lời thăm nhé!", Tư Tuyết em ôi, lòng anh đau như cắt, nhứt là hay tin cốt tro của em sẽ gởi vào thánh đường, nhưng nhà thờ gần đây mới bày ra tro cốt gởi nhà lưu trữ, còn anh đây, nửa theo Thánh Giá, nửa theo đạo Khổng, anh đang điều đình với Phụng là dưỡng tử của em, hãy cho anh rước tro em đưa về an táng nơi đất chùa ở Quang Mỹ tự (Phước Thiền), Biên Hoà, may ra được gần phần mộ của bà và của anh Ba Thoại, bào huynh của em. Nay em ra đi, anh sống lại làm chi với tuổi 91 để chứng kiến cảnh thương tâm này? Hồn em có linh, xin chứng chiếu...".
Chuyện tình cụ Vương Hồng Sển - Kỳ 3: Gặp nữ nghệ sĩ tài danh Năm Sa Đéc
Chàng VƯƠNG năm 22 tuổi
Người đàn bà thứ ba xuất hiện trong đời sống tình cảm của cụ Vương và trở thành người vợ chung sống mặn nồng, lâu nhất với cụ suốt 41 năm là nữ nghệ sĩ Năm Sa Đéc mà NSND Đinh Bằng Phi đã tóm lược cuộc đời hoạt động nghệ thuật vang bóng của bà bằng mấy câu: "Trong giới hát bội, ít ai quên được một nữ nghệ sĩ tài danh mà tiếng tăm vang lừng từ Nam ra Bắc, từ lúc thanh xuân đến tuổi lão thành, đó là nghệ sĩ Năm Sa Đéc. Bà có một cuộc đời nghệ thuật khá vinh quang và cuộc đời thường của bà không kém phần sóng gió". Nói sóng gió là do việc đổi dời của bà theo nhiều bước thăng trầm của các gánh hát trứ danh thời đó và ngay cái tên Năm Sa Đéc cũng xuất phát từ việc "đụng hàng" với một cô đào khác. Nguyên tên thật của bà là Nguyễn Kim Chung, sinh năm 1907, là con của ông bầu gánh hát bội Nguyễn Duy Tam. Lúc đầu ông Tam đặt cho bà tên gọi ở nhà là Năm Nhỏ. Nhưng về sau để tránh trùng tên với cô đào Năm Nhỏ gốc người Cần Thơ lúc bấy giờ đã nổi tiếng, ông Tam đã đổi tên gọi bà thành Năm Sa Đéc với ý là "Cô Năm (Nguyễn Kim Chung) gốc người Sa Đéc".
Trước khi gặp cụ Vương, Năm Sa Đéc đã là một trong những nghệ sĩ tiền phong trên sân khấu hát bội được đánh giá thanh sắc lưỡng toàn thu hút đông đảo khán giả ái mộ. Và cụ Vương là một "khán giả" đặc biệt đã ghi sâu hình ảnh "em Năm Sa Đéc" vào mộng chiều xuân, như bài văn tế sau này ghi lại:
"Gió lá vai mang nhè nhẹ", em xuống giọng "thoàn"
Người hùng lòng thấy lâng lâng, hồn theo mộng bướm.
Đôi chân bước khoan thai dìu dặt, êm đềm như gió trúc lay cành.
Muôn mắt nhìn đắm đuối say sưa, miên man tưởng "chiều thu đổ lá". (...)
Rạp Quảng Lạc Hà Thành nô nức, lễ tiếp nghinh, tiệc mở cờ treo;
Danh "Cô Năm Sa Đéc" lẫy lừng, đến biểu diễn hoa dâng quạt thưởng.
Cụ Vương để tâm tìm hiểu "cô Năm Sa Đéc" và biết sau ngày gánh hát nhà của cha tan rã, Năm Sa Đéc dạt sang Cần Thơ đi hát cho gánh của Bầu Bòn. Ở đó, mặc dầu xuất thân từ sân khấu hát bội, song Năm Sa Đéc cũng phải chiều ý của Bầu Bòn để hát pha cải lương theo nhu cầu của khán giả thời ấy. Nhưng rồi, cũng không bền, Năm Sa Đéc lại xuất hiện ở các đoàn hát của Trần Đắt, Huỳnh Kỳ sắm các vai kiếm khách, văn thần, võ tướng qua các vở cải lương. Tiếp đó cô đến với đoàn Song Phụng, rồi lại về Sài Gòn với đoàn Phước Xương (của cô Ba Ngoạn) và tài năng lại rực sáng, lôi cuốn khán giả với các vai kép, vai văn, hoặc vai võ như Lữ Bố, Triệu Tử, Địch Thanh...
Cụ Vương thời sống với nghệ sĩ Năm Sa Đéc ở "vuông nhà cổ tích"
Bấy giờ, tuy Năm Sa Đéc sống giữa chốn đô hội nhưng không mấy vui, vì mang trong lòng mối tình đổ vỡ giữa cô và nghệ sĩ Hai Th. Chính lúc đó cụ Vương cũng lên Sài Gòn, cũng mang trong lòng mối ngổn ngang sau ngày chia tay với Tuyết. Hai người gặp nhau và có lẽ mối đồng cảm trong "trường tương tư" đã nhanh chóng kết nối cụ Vương với nữ nghệ sĩ tài danh này như lời nhận xét của người trong giới, rằng: "Cuộc đời của nghệ sĩ Năm Sa Đéc bước vào một khúc quanh mới, khi cô gặp gỡ và kết nghĩa với học giả, nhà khảo cổ Vương Hồng Sển, khi hai người vừa "gãy gánh giữa đường". Ông thì làm công chức, viết sách, nghiên cứu các thú chơi đồ cổ, đá gà, hát bội, bà thì hát bội, diễn cải lương... Ban đầu lúc kết nghĩa vợ chồng, vào cuối năm 1947, cụ Vương và Năm Sa Đéc sống trong một ngôi nhà nhỏ ở xóm Cù Lao nằm trên đường Võ Di Nguy cũ. Đó là ngôi nhà lợp lá ọp ẹp nhưng cũng không phải là nhà riêng mà phải thuê lại của một người chủ quen gọi là thầy Sáu. Tuy vậy cuộc sống chung ấm áp dưới mái lá đó đã để lại những kỷ niệm không quên mà sau này cụ Vương nhắc lại:
Anh hồi tưởng: Chòi lá năm xưa, Cù lao xóm cũ
Ngồi nghe em hát, giọng du dương trưa sớm chẳng nhàm tai,
Bàng hoàng giấc mộng trầm tư, đành chết điếng khúc quanh chiều rẽ lối.
Long lanh ngấn lệ trào dâng,
Lặng lẽ trang tình xếp lại (...).
Đôi vợ chồng ra vào khắng khít, mắm muối mà vui,
Một chòi tranh sau trước đìu hiu, ghế bàn chẳng có.
Những câu trên nằm trong bài "văn tế Năm Sa Đéc" khá thảm thiết. Bài này do một người khác ký tên Tế Nhị chấp bút "viết thay lời chồng là Vương Hồng Sển". Mà lại viết trước khi nghệ sĩ Năm Sa Đéc qua đời để nhằm "dọn sẵn bài khóc vợ" cho cụ Vương với sự đồng ý của cụ.
Thật vậy, nguyên vào cuối tháng 7.1981 (tức 7 năm trước khi bà Năm Sa Đéc mất), cụ Vương đến nhà của Tế Nhị ở đường Hai Bà Trưng rồi thuật hết tâm tình của mình trong đời sống vợ chồng với bà Năm Sa Đéc cho Tế Nhị nghe. Tế Nhị ngồi trên chiếc ghế mây, vừa nghe vừa ngẫm nghĩ và theo lời cụ Vương sau đó Tế Nhị đã "xuất thần đọc cho tôi chép (bài văn tế), chép tới đâu nước mắt tôi chảy tới đó". Là vì trước hết bài văn nhắc đến quãng đời "rất nghệ sĩ" của hai người trong cảnh khó khăn: Bút rè ngòi, tiền cạn túi, anh khoe đồ cổ, chúng chẳng thèm mua. Nhà dột nóc, gạo lưng nồi, em bán bánh bao, lời không đủ sống (...). Tôi la cà quán sách giải buồn. Bà cắp củm, túi tiền nhỏ giọt.
Về sau này, cuộc sống khá hơn khi họ dời về "vuông nhà cổ tích" rộng rãi hơn nhiều, khang trang hơn nhiều ở đường Nguyễn Thiện Thuật gần chợ Bà Chiểu năm xưa... Chính ở ngôi nhà này bà đã qua đời đột ngột vào trưa ngày 26.1.1988 sau khi đã đi một vòng thăm những nghệ sĩ lão thành như Ba Út và Năm Đồ về. Cụ Vương than: "Em sao vội phủi tay đứng dậy? Tắt đèn đời, tìm giấc ngủ thiên thu. Anh chỉ còn trơ mắt nhìn theo: qua giòng lệ viết trang tình nửa đoạn"...
Mời mọi người nghe đoạn audio về nghệ sĩ Tiên Phong Năm Sa Đéc. Và mọi người còn có thể nghe lại những bài ca của bà trong những năm bà còn rất trẻ của hãng đĩa Beka thu cách đây hơn 55 năm đã đi sâu vào lòng khán giả và huyền thoại.
Mời mọi người nghe đoạn audio về nghệ sĩ Tiên Phong Năm Sa Đéc. Và mọi người còn có thể nghe lại những bài ca của bà trong những năm bà còn rất trẻ của hãng đĩa Beka thu cách đây hơn 55 năm đã đi sâu vào lòng khán giả và huyền thoại.
Trong số những nghệ sĩ tiền phong nổi danh cuối thập niên 20 và trong hai thập niên 30, 40, nữ nghệ sĩ tiền phong Năm Sadec là một nghệ sĩ thiên tài, bà nổi danh về nhiều bộ môn trong lãnh vực nghệ thuật sân khấu như Hát bội, hát cải lương tuồng Tàu, cải lương tuồng xã hội, diễn kịch nói, diễn viên truyền hình và đóng phim ảnh Nữ nghệ sĩ tiền phong Năm Sadec
17.04.2008 20:16
Mỗi loại hình nghệ thuật có một lối ca, hát, biểu diễn khác nhau, có khi hoàn toàn đối nghịch với nhau, đòi hỏi người nghệ sĩ phải có học nghề một cách thấu đáo, tinh vi thì khi biểu diễn mới không lẫn lộn.
Ví dụ nghệ thuật hát bội chú trọng tả ý, dùng động tác tượng trưng để diễn tả ý của câu chuyện, của tâm lý nhơn vật. Lời hát theo điệu nói lối, văn biền ngẩu , câu văn đối xứng với nhau nên diễn viên cũng nói lối theo từng vế của câu văn. Lối hát khách, hát tẩu mã cũng đòi hỏi người diễn viên hát bội vận dụng giọng nói thật lớn, như thét như gào. Vì vậy nghệ sĩ hát bội thường bị bể tiếng, tiếng nói nghe khào khào.
Trái lại nghệ thuật diễn kịch thì chú trọng tả thực, từ dáng đi điệu đứng, nét mặt nụ cười đều giống như thực tế xảy ra ở ngoài đời. Đã có rất nhiều diễn viên cải lương khi diễn kịch thì cách phát âm một câu nói trong kịch vẫn còn pha giọng nói theo hơi đờn như khi anh hát cải lương. Thói quen nói giọng theo giây đờn không dễ gì bỏ được nên không phải nghệ sĩ cải lương nào cũng có thể thành công dễ dàng khi chuyễn qua diễn kịch nói.
Nữ nghệ sĩ tiền phong Năm Sadec đã thành công một cách xuất sắc trong tất cả các loại hình nghệ thuật vừa kể. Khi bà hát bội, bà có nghệ danh Năm Nhỏ. Nghệ sĩ Năm Nhỏ từng là đào chánh của gánh hát bầu Thiềng năm 1925. Khi bà Năm Nhỏ sang hát bội cho gánh hát Phước Tường của bà Bầu Ba Ngoạn,nghệ sĩ Năm Nhỏ từng đóng tuồng cặp với các kép hát mặt trắng, nổi danh như kép Hai Thắng, túc là thân phụ của kép hát tài danh Minh Tơ và là ông nội của nghệ sĩ Hát tuồng cổ Thanh Tòng.
Bà Năm Nhỏ khi chuyển sang hát cải lương năm 1934, bà đổi nghệ danh là Năm Sadec.
Bà Năm Sadec tên thật là Nguyễn Kim Chung, sanh năm Mậu Thân 1907, tại làng Tân Đông, huyện Nha Mân, tỉnh Sadec. Thân sinh là ông Nguyễn Duy Tam, ông lập gánh hát bội nên được gọi là Bầu Tam. Hồi xưa có cô đào hát tên là Kim Chung, hát bội rất hay. Ông Bầu Tam muốn con gái của mình cũng hát hay như cô đào Kim Chung nên mới lấy tên của cô đào đó mà đặt cho con.
Thuở nhỏ bà Năm theo cha mẹ học nghề hát bội, đến năm 18 tuổi bà Năm làm đào chánh cho gánh hát Bầu Thiềng. Bà Năm Nhỏ nỗi danh qua các vai Đào Tam Xuân trong tuồng Đào Tam Xuân báo phu cừu, vai Lữ Phụng Tiên tuồng Phụng Nghi Đình, vai Hồ Nguyệt Cô, tuồng Tiết Giao Đoạt Ngọc, …
Trước năm 1975, Nguyẽn Phương thường đến nhà ông Vương Hồng Sển chồng của bà Năm Sadec ở số 5 đường Nguyễn Thiện Thuật, quận Bình Thạnh tỉnh Gia Định để mời Bà Năm Sadec thủ diễn một vai kịch trong Ban Phương Nam Đài Truyền Hình hoặc mời bà hát trong tuồng Đoạn Tuyệt của đoàn hát Thanh Minh Thanh Nga.
Lúc đó ông Vương Hồng Sển có cho mượn, dĩa hát 78 tours ghi âm hát bội của bà Năm Sadec để tôi sang cassette. Khi đi định cư ở Canada, tôi mang theo nhiều tư liệu, trong đó có cassette giọng hát của bà Năm Sadec.
Nghe bà Năm Nhỏ tức bà Năm Sadec hát một lớp lối Ai tuồng Tiết Giao Đoạt Ngọc, bà Năm trong vai Hồ Nguyệt Cô. Giọng hát bội của bà Năm Sadec được hãng dĩa BéKa thu thanh lúc bà còn trẻ.
Hoăc65 nghe giọng hát của bà Năm Sadec trong vai bà Phán, mẹ chồng của cô giáo Loan tuồng Đoạn Tuyệt, hát trên sân khấu Thanh Minh Thanh Nga. Việt Hùng trong vai Thân, anh chồng khờ, nữ nghệ sĩ Thanh Nga trong vai Loan, nữ nghệ sĩ Ngọc Nuôi trong vai Bích, em chồng và bà Năm Sadec trong vai Bà Phán, bà mẹ chồng nghiệt ngã. Cassette nầy do hãng Continental thu năm 1965.
Nnghe hai đoạn minh họa giọng hát của bà Năm Sadec, với hai loại hình nghệ thuật khác nhau, bà hát phân biệt rõ ràng hai thể loại, đó không phải là một chuyện dễ dàng trong giới nghệ sĩ sân khấu.
Từ năm 1925 đến năm 1934, Bà Năm Sadec đi hát cho các gánh hát bội của bầu Thiềng, gánh Phước Tường, Phước Xương, Bầu Bòn…Khi hát bội thì được giới mộ điệu tặng cho danh hiệu là một trong ngũ châu của ngành nghệ thuật hát bội. Năm viên ngọc qúy của ngành hát bội đó là các nữ nghệ sĩ Năm Nhỏ (bà Năm Nhỏ là dâu của bà bầu Ba Ngoạn) các bà Năm Đồ, Cao Long Ngà, Năm Sadec và Ba Út.
Quá trình nghệ thuật
Bà Năm Sadec nổi danh qua các vai tuồng Ngũ Biến Báo Phu Cừu, Đào Tam Xuân, Lữ Phụng Tiên, Địch Thanh, Triệu Tử Long, Hồ Nguyệt Cô, Phàn Lê Huê, Địch Thiên Kim….
Từ năm 1934, Bà Năm chuyển qua hát cải lương, đổi nghệ danh là Năm Sadec. Bà hát cho các gánh hát Huỳnh Kỳ, Trần Đắc, Song Phụng, Phụng Hảo.Bà hát tuồng cải lương xã hội, tuồng Tàu, nổi tiếng qua các vai Lữ Phụng Tiên, Địch Thanh, Manh Phu Nhơn, Đổng Trác. Khi bà Phùng Há hát vai Lữ Bố thì bà Năm Sadec hát vai Đổng Trác.
Có thể nói vai Đỗng Trác phía nam diễn viên thì nghệ sĩ Năm Định hát rất xuất sắc. Đến khi bà Năm Sadec thủ vai Đỗng Trác, chẳng những bà diễn được những miếng, mãn hay như nghệ sĩ Năm Định, bà Năm Sadec còn làm cho khán giả cười vở bụng vì lối diễn lẵng của bà trong lớp nhập trướng với Điêu Thuyền.
Đầu thập niên 60, khi ngành kịch nói bắt đầu hoạt động mạnh ở Saigon thông qua những suất diễn kịch ngắn, kịch truyền thanh, bà Năm Sadec được mời tham gia Ban Kịch Kim Cương, Ban Kịch Thẩm Thúy Hằng diễn kịch tại các đại nhạc hội chúa nhựt. Bà cũng hát cải lương đoàn Thanh Minh Thanh Nga mà vai tuồng để đời của bà là vai bà Phán trong tuồng Đoạn Tuyệt.
Từ năm 1966, 1967, Bà Năm Sadec được các Ban Kịch Thẩm Thúy Hằng, Kim Cương, Ban kịch Sống Túy Hồng, Ban kịch Phương Nam Nguyễn Phương mời thủ diễn các vai bà tư sản, hội đồng hoặc các bà nông dân chất phác trên Đài Truyền Hình Saigon. Bà cũng là diễn viên được ưa chuộng trong chương trình Thép Súng của Đài Phát Thanh và Truyền Hình Quân Đội.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, bà bị không cho đăng ký hành nghề vì tội đã diễn kịch trong chương trình Thép Súng của Đài Truyền Hình Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa.
Năm 1986, ông Nguyễn Văn Linh tuyên bố cỡi trói cho văn nghệ sĩ, bà Năm Sadec được mời đóng vai các bà nông dâng trong phim “Phù Sa”, phim “Nơi bình minh chim hót”, phim “Con thú tật nguyền” và phim “Cho đến bao giờ” tại Sadec, Nha Mân vÀ Đồng Tháp Mười.
Hai ngày sau khi quay xong phim ở Đồng Tháp Mười, bà về đến nhà, ngã bịnh mất vào ngày 26 tháng giêng năm 1988.
Di thể của Bà không được quàn ở Hội Nghệ Sĩ, không được an táng trong Nghĩa Trang Nghệ Sĩ và nghệ sĩ cải lương và hát bội cũng không được thông báo để viếng bà lấn chót. Ông Vương Hồng Sển đưa linh cữu của bà về an táng tại huyện Nha Mân, quê hương của bà.
Số là sau biến cố Tết Mậu Thân nghệ thuật cải lương khốn đốn, nghỉ hát dài dài, nghệ sĩ ai cũng phải tìm thêm một nghề khác để sống tạm chờ thời. Và riêng Bà Năm Sa Ðéc thì làm thêm nghề bán bánh bao tại đường Nguyễn Tri Phương ở gần Ngã Sáu Chợ Lớn. Lúc đầu bà chỉ gởi nhờ một nồi hấp bánh bao trong tiệm ăn, và chỉ dùng phấn viết chữ “bánh bao Cả Cần” trên tấm bảng nhỏ dựng trước nồi hấp bánh.
Là một nghệ sĩ được nhiều người biết tên, biết mặt nên được bà con mua bánh ủng hộ khá nhiều, và dần dần thì chiếc nồi hấp bánh lớn hơn, tấm bảng vẽ bằng sơn cũng lớn hơn.
Theo như một số người thì bánh bao Cả Cần là đặc sản của một tiệm nào đó ở miền Tây từ lâu đời và cũng có tiếng. Không biết do ai điềm chỉ mà Bà Năm Sa Ðéc đã tự mang nó lên Sài Gòn, để sống đắp đổi trong lúc nghề nghiệp chính là sân khấu của bà đang gặp cơn khủng hoảng.
Trong khi đó thì một người khác có lẽ quê hương ở miền Tây, biết rành rẽ hơn về bánh bao Cả Cần, và người này đã thương lượng với người sản xuất mua lại nhãn hiệu nói trên, mang lên khai thác ở Sài Gòn. Có điều là người này đã làm đủ mọi thủ tục mua bán món hàng đặc sản ấy, bằng cách đem nhãn hiệu “bánh bao Cả Cần” cầu chứng ở tòa thương mãi, xin giấy phép ở sở vệ sinh, đồng thời đem đi viện Pasteur phân chất kiểm nghiệm đàng hoàng, có nghĩa là chuẩn bị kỹ lưỡng cho cuộc làm hợp pháp.
Khi vấn đề pháp lý đã xong, thì người này một mặt trương bảng “Bánh Bao Cả Cần” thật lớn ở vùng Phú Nhuận, và mặt khác đưa Bà Năm Sa Ðéc ra tòa về tội mạo nhận nhãn hiệu và xin lệnh dẹp bảng của bà.
Cảnh sát Quận 5 thi hành án lệnh tòa, khiến Bà Năm Sa Ðéc kêu trời như bộng. Báo chí loan tin, nhiều cuộc phỏng vấn được lên báo đã khiến cho bánh bao Cả Cần nổi tiếng, và dĩ nhiên người có nhãn hiệu hợp pháp kia mỗi ngày bỏ tiền đầy túi, đếm mệt nghỉ! Lúc bấy giờ người đi xe Honda dừng lại mua bánh bao từ sáng đến chiều, từ ngày đến đêm bán không kịp.
Riêng Bà Năm Sa Ðéc vì không có giấy phép phải dẹp bảng, mang nồi hấp bánh đem về nhà bán lén lút. Thế nhưng, người kia đâu để cho yên, mướn thám tử theo dõi và một lần nữa bà Năm bị lôi thôi, rắc rối.
Lúc bấy giờ có người hướng dẫn cho bà nhờ luật sư thưa ngược trở lại rằng bà là người “đi trước”. Nhờ báo chí bênh vực và tòa án cũng “thông cảm” nên cho Bà Năm Sa Ðéc được bán bánh bao Cả Cần trở lại song song với tiệm kia, và cũng phải xin giấy phép đóng thuế đàng hoàng. Thế là thời gian sau người ta thấy ở Sài Gòn có đến hai tiệm bánh bao Cả Cần là vậy.
Lúc bấy giờ có dư luận nói rằng nếu như không phải là Bà Năm Sa Ðéc bán bánh bao, mà là một người nào đó thì chẳng có chuyện gì hết, bởi bánh bao Cả Cần chẳng ngon gì hơn bánh bao của tiệm nước Chú Ba ở Chợ Lớn. Người kia đã nhắm vào cái nghệ danh “Bà Năm Sa Ðéc”để làm lớn chuyện, coi như một cách quảng cáo tinh vi, dùng tên tuổi của bà để mà hốt bạc vậy!
Tiện đây cũng nói thêm về tiểu sử, sự nghiệp của Bà Năm Sa Ðéc một nghệ sĩ nổi danh hằng mấy chục năm. Bà sinh năm Mậu Thân (1908). Có lẽ năm 1968 là năm tuổi đáo tuế của bà nên bị xui xẻo chăng? Thập niên 1930 bà theo gánh hát bội, rồi chuyển sang cải lương nổi tiếng với những vai trò diễn xuất tự nhiên mà người xem tuồng tưởng như thật: Vai bà mẹ chồng của cô Diệu trong tuồng Lá Sầu Riêng, và vai mẹ chồng cô Loan trong vở Ðoạn Tuyệt, cả hai vai đều là bà mẹ chồng sang trọng, trưởng giả, phong kiến....
Bà Năm Sa Ðéc là vợ của nhà khảo cổ Vương Hồng Sển, sống với ông từ 1947 đến 1988 thì qua đời tại Sài Gòn ở tuổi 81. Trong nghệ thuật sân khấu người ta rất hiếm khi tìm được một đào mụ nào xuất sắc như bà. Cái hay của Bà Năm Sa Ðéc là khi đến tuổi tứ tuần, bà từ chối các vai trẻ, mà rèn luyện vai già cho thích hợp, do đó mà bà nổi tiếng rất lâu. Chớ không như những đào già khác đã ngoài 60 mà vẫn còn đòi đóng vai gái 17, 18 gây khó chịu chướng mắt cho khán giả.
(TBKTSG Online) - Bà Năm Sa Đéc là một nghệ sĩ cải lương lẫy lừng cùng thời với nghệ sĩ Bảy Nam và Phùng Há. Cái tên của bà còn gắn với quán hủ tíu Cả Cần được nhiều thực khách ưa chuộng.
Quán hủ tíu Cả Cần khai trương vào năm 1969 tại công viên tiểu đảo phía trước công viên Văn Lang ở ngã tư đường Hùng Vương và Nguyễn Tri Phương. Hơn 40 năm qua, quán vẫn tọa lạc ngay đúng một địa điểm và lúc nào cũng đông khách. Chừng đó thời gian tồn tại cũng đủ chứng minh sức hấp dẫn của món ăn ở đây.
Hủ tíu Cả Cần còn có món bánh bao trứ danh - ảnh: Huy Nguyễn
Tuy nhiên, theo một thành viên lâu năm của gia đình chủ quán, lúc mới khai trương quán không thu hút được nhiều khách hàng. Ông Cả Cần, chủ quán, đã mời nghệ sĩ Năm Sa Đéc đứng tên hộ như một cách mượn danh người nổi tiếng để quảng cáo.
Lập tức chiêu thức này tỏ ra hiệu nghiệm. Những người mê cải lương ùn ùn kéo đến quán để vừa thưởng thức món ăn ngon vừa chiêm ngưỡng người nữ nghệ sĩ bằng xương bằng thịt. Quả thật danh tiếng của bà đã có sức hút thực khách mạnh mẽ, dù vậy, điều quan trọng phải kể đến ở đây là chất lượng món ăn. Hủ tíu ở đây là hủ tíu Mỹ Tho chính hiệu, dai nhưng dòn chứ không khô cứng như các loại hủ tíu bình thường khác.
Nếu dùng hủ tíu khô, điều đầu tiên mà thực khách chạm đến là vị chua ngọt của nước sốt đặc biệt chan đều trên sợi hủ tíu. Kế đến có thể vị bùi của miếng thịt sườn, mà cộng xương của nó được hầm mềm đến mức thực khách có thể nhai nát để rút vị ngọt của tủy. Đâu đó trong tô còn có vài lát thịt xá xíu và thịt bằm góp phần làm cho món ăn thêm hấp dẫn. Tuy nhiên, có một hương vị đặc biệt ít thấy ở quán khác chính là tôm khô cháy tỏi giòn rọm. Vị mặn của nó tao nên sự đa dạng trong hương vị món ăn. Điều không thể thiếu nữa chính là vị nước súp rất đậm đà và nóng sốt.
Khoảng một năm trở lại đây, để tạo sự thay đổi và tăng hương vị cho món ăn, chủ quán còn bổ sung thêm món chả lụa. Qủa thật vị ngọt và độ giòn của nguyên liệu này giúp cho món ăn vốn ngon lại càng ngon hơn. Chính vì chả lụa ở đây rất ngon mà quán có bán riêng từng đòn cho thực khách mang về.
Ngoài ra, tại đây còn có món bánh bao trứ danh. Vỏ bánh vẫn làm bằng bột mì, ruột bánh gồm thịt bằm, trứng cút, củ sắn nhưng nhờ kỹ thuật hấp bí truyền nên cái bánh vừa nóng vừa thơm ngon khác thường. Nhiều thực khách sau khi dùng xong một tô hủ tíu còn dùng thêm một cái bánh bao và tráng miệng bằng một ly sữa đậu nành thơm tho. Không chỉ món ăn ngon mà quán cũng rất vệ sinh và phục vụ chu đáo.
Nếu so với các tô hủ tíu của các quán ăn khác, tô hủ tíu Cả Cần có phần “hùng hậu” hơn về lượng. Một tô hủ tíu lớn có hai miếng thịt sườn, ba miếng chả lụa, bốn miếng xá xíu, thịt bằm và nhiều tôm khô nên giá của nó cũng lên đến 55.000 ngàn đồng, còn tô nhỏ có giá 40.000 đồng.
Giá cả tuy cao nhưng nếu xét về số lượng thịt và chất lượng món ăn, thực khách sẽ thấy giá tiền ấy hoàn toàn xứng đáng. Nhờ vậy, có những thực khách bốn mươi năm qua tuần nào cũng đến ăn. Họ ưa thích món ăn ngon và cũng có thể họ đến để hồi tưởng lại cái thời quán còn hình bóng của bà Năm Sa Đéc.
Nghệ sĩ Năm Sa Đéc: Ngôi sao sáng cải lương Nam bộ
Ở Nam bộ, nói đến nữ nghệ sĩ Năm Sa Đéc, từ tuổi 40 trở lên ít ai là không nghe danh tiếng của bà.
Lùi lại hơn 80 năm trước, từ giai đoạn sơ khai của nghệ thuật cải lương, phong trào ca nhạc cổ điển được nhân dân ái mộ và phát triển rộng khắp các làng quê nông thôn Nam bộ. Từ năm 1910, bài bản cổ nhạc khá phong phú đa dạng qua các làn điệu hò, lý, ngâm... thuộc dân ca đã được chuyển hóa, đủ 3 Nam, 6 Bắc, 4 Oán, 7 bài lớn, 8 bài Ngự, 10 bài Liên Hoàn... Danh ca, nhạc sĩ, xuất hiện đông đảo.
Các lễ hội cúng đình, cúng miễu, giỗ chạp, tiệc tùng, liên hoan, thôi nôi, đầy tháng... hay rước các danh ca, nhạc sĩ giúp vui, thường họ ít khi nhận thù lao, chỉ chè chén qua loa cho xôm tụ, với sự góp mặt của các nhà giáo, các kỳ lão. Tóm lại, nơi nào có quần chúng tụ họp là có tài tử đàn ca. Lúc đầu còn ngồi ca, tài tử cao hứng vừa ca vừa ra bộ. Ca và ra bộ càng nhiều thì khán giả càng tán thưởng. Rồi lần hồi tiến dần đến hát chập, cao hơn một bước nữa là sân khấu.
Năm 1915, tại tỉnh Sa Đéc, một gánh hát bội tiên phong ra đời mang tên Thiện Tiền Ban do ông Hương Cả Tam, tên thật là Nguyễn Văn Tam, đứng ra thành lập và làm “bầu gánh”. Hương Cả Tam chánh quán tại làng Tân Đông, tổng An Thạnh Hạ, quận Châu Thành, tỉnh Sa Đéc (nay thuộc thị xã Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp). Mà Hương Cả Tam là thân sinh của nữ nghệ sĩ Năm Sa Đéc.
Nghệ sĩ Năm Sa Đéc, chính danh là Nguyễn Kim Chung, sinh năm 1908 và mất năm 1988, hưởng thọ 80 tuổi. Năm nay, kỷ niệm 90 năm ngày sinh và 18 năm ngày giỗ của bà.
Nữ nghệ sĩ Năm Sa Đéc gia nhập sân khấu theo chí hướng của cha mẹ. Vì Năm Sa Đéc xuất thân từ hát bội. Gánh hát mà bà gia nhập là Phước Tường năm 1928, năm đó bà mới 20 tuổi, chủ gánh là Sáu Xưởng, em ruột của Nguyễn Ngọc Cương, bầu gánh Phước Cương, thân sinh của nữ NSƯT Kim Cương. Sau đó, bà rời gánh Phước Tường, cộng sự với đoàn Phụng Hảo của nữ NSND lão thành Phùng Há, lần lượt bà cộng tác gánh Vân Hảo (Ba Vân - Phùng Há), Thanh Minh - Thanh Nga (chủ bầu Lư Hòa Nghĩa, cha ruột của Thanh Nga và Bảo Quốc)... Vì bà từ sân khấu hát bội bước qua lĩnh vực cải lương nên nghề nghiệp rất vững vàng, chỉ cần học tập thêm chút ca cổ là tiến bộ rực rỡ trên nghệ thuật sân khấu cải lương.
Mấy chục năm qua, người sành điệu sân khấu ca kịch, chắc còn nhớ vai bà Phán Lợi, do nữ diễn viên Năm Sa Đéc thủ diễn, qua vở xã hội Đoạn tuyệt (phóng tác theo tác phẩm cùng tên của nhà văn Nhất Linh) rất thành công, được khán giả hoan nghênh nhiệt liệt qua nhiều lần trình diễn trên sân khấu đại ban Thanh Minh - Thanh Nga, ăn khách một thời. Nhiều ký giả kịch trường thời đó đã khẳng định chưa ai thủ diễn vai bà Phán Lợi hay hơn nữ diễn viên Năm Sa Đéc.
Và đời sống hạnh phúc lứa đôi, bà đã một lần đổ vỡ, mãi đến năm 1947, bà chắp nối cùng nhà biên thảo Vương Hồng Sển, nguyên Giám thư Bảo tàng viện Sài Gòn. Qua quá trình chung sống với cụ Vương Hồng Sển hơn 40 năm, bà hạ sinh người con trai duy nhất là Vương Hồng Bảo, sinh năm 1951. Ngoài địa hạt ca kịch cải lương, bà còn là nữ minh tinh điện ảnh qua nhiều bộ phim thực hiện trước năm 1975 mà chắc khán giả khó quên: Lệ đá, Con ma nhà họ Hứa...
Sau năm 1975, mặc dù tuổi tác đã cao, nhưng nghệ thuật vẫn không chùn bước, “Gừng càng già càng cay”, khán giả yêu mến kịch nói vẫn tiếp tục gặp lại bà trong vở Lá sầu riêng của đoàn kịch Kim Cương. Dù vắng mặt trên sân khấu, bà Năm Sa Đéc lại xuất hiện ở phim ảnh với những bộ phim quen thuộc như: Cho đến bao giờ (do đạo diễn Huy Thành năm 1983), Mùa nước nổi (Hồng Sến năm 1984), Con thú tật nguyền (Hồ Quang Minh năm 1984), Nơi bình yên chim hót (Việt Linh năm 1986) và bộ phim cuối cùng là Phù sa thực hiện năm 1987 bà thủ diễn vai bà Hai Lành. Hoàn thành bộ phim Phù sa, bà Năm Sa Đéc trở về Sài Gòn rồi nhuốm bệnh, phần tuổi cao, sức yếu... bà từ giã cỏi đời một cách đột ngột vào năm 1988, thọ 80 tuổi.
Nhắc đến chân dung nghệ sĩ Năm Sa Đéc vang bóng một thời để khách mộ điệu thương tiếc một tài hoa với đức hạnh vẹn toàn để lớp nghệ sĩ sau lấy đó làm điểm tựa soi gương, đồng thời thắp nén hương tưởng niệm bà nhân 90 năm ngày sinh và 18 năm ngày giỗ nữ nghệ sĩ Năm Sa Đéc.