Nhà báo lão thành Hồ Quang - một cộng tác viên đắc lực lâu năm với toàn soạn Báo Sân Khấu đã có bài phân tích rất hay về bản dựng lại SKVK. Mem xin phép được đăng lại để mọi người vừa thưởng thức vừa chia sẻ với những phân tích của ông.
"SÂN KHẤU VỀ KHUYA" ĐÁNG ĐƯỢC BẢO LƯU!
Vở ca kịch Sân khấu về khuya (SKVK) của soạn giả Nguyễn Thành Châu vừa qua (tháng 11/2010) được đài truyền hình Long An sản xuất; NSUT Mỹ Châu dàn dựng. Danh tác bất hủ này đã chào đời trên nữa thế kỹ, mà tiền thân là vở thoại kịch (kịch nói) được bác Năm Châu tạo tác vào thời điểm 1956, 1957 với cái tên rất ấn tượng: Trong Bóng Hậu Trường. Thời ấy, nghệ danh Năm Châu đang chói chang nắng vàng trong buổi chính ngọ. Ông viết kịch bản cải lương, phim truyện, kịch nói. Hãng Mỹ Vân, 1 studio lớn rất trọng thị ông; 1 số phim điện ảnh ăn khách của hãng chính là tác phẩm của mang thương hiệu Năm Châu. Trong đời cầm bút, đứa con tinh thần giúp ông chiến thắng vang dội về doanh số không phải là tác phẩm sân khấu mà là phim ảnh: Quan Âm Thị Kính với các diễn viên Năm Châu, Ba Vân, Bảy Nhiêu, Kim Cúc, Kim Lan...số vốn hãng bỏ ra khoảng 400 ngàn đồng Việt Nam (1 đô la khi ấy bằng 6 đồng Việt Nam), tận thu vé khắp các tỉnh thành miền nam là hơn 4 triệu VND.
Phác họa chân dung nghệ sĩ Mỹ Châu qua nhân vật Giáng Hương - Ảnh: Derek
Trường hợp vở thoại kịch Trong Bóng hậu trường, công chúng và báo giới trông đợi nao nức 1 khoảng thời gian dài và phải thất vọng lớn lúc hay tin nó bị người cha sinh nó gác lại; do có lấn cấn về vai Giáng Hương giữa diễn viên miền Nam, miền Bắc. Vài năm sau, hậu sinh nó xuất hiện đình đám trên sân khấu Thanh Minh với Giang Hương - Thanh Nga, Lĩnh Nam - Thành Được, và Hữu Phước - Quốc Sơn, Nam Hùng - Hữu Dũng, Mỹ Tiên - Ngọc Giàu, Cúc lan Hương - Thanh Thanh Hoa... ăn khách cực kỳ, chấn động làng giải trí! Giấy mực báo giới bị hao tốn nhiều! Nó được thu hình (phát sóng), thu đĩa, in thành tập khổ nhỏ cở sổ tay bán đại trà khắp các tỉnh (tôi còn giữ 1 bản củ mèm).
Thanh Nga, Thành Được và Ngọc Giàu - Giáng Hương, Lĩnh Nam và Mỹ Tiên của Sân Khấu về khuya trước 75
Sau 30/4 năm 75, Sân khấu về Khuya được dàn dựng trên sân khấu đoàn Sài Gòn 1 với Thành Được, Mỹ Châu, Ba Vân, Ngọc Giàu, Thanh Thanh Hoa... đây chính xác hiển thị dấu ấn thăng tiến vượt bậc của Mỹ Châu tác nghiệp thể loại chính kịch xã hội, 1 nghịch lý đối kháng với thể loại kịch bản kiếm hiệp diễm tình đã giúp cô lập thịnh danh. Một sự chuyển biến thần kỳ, nhờ bàn tay điêu luyện của bậc thầy Năm Châu và các đồng nghiệp thâm niên, cộng thêm lòng quả cảm, yêu nghề, cầu tiến... Mỹ Châu đã thụ nhận sự phản hồi nồng nhiệt ngọt ngào từ công chúng cũng như đồng nghiệp, nhất là bậc thầy Năm Châu.
Rồi... (hơn) 30 năm sau, đài Long An làm cuộc ấn chứng một Mỹ Châu - Giáng Hương giữa khoảng cách thời gian hơn 3 thập kỷ. Và cuộc thẩm định đó đã có đáp án: A/A+. Chúc mừng cô - Mỹ Châu, chữ A+ tỏ rỏ phong độ vẫn đi lên.
Sân khấu về khuya - bản dựng 2010 với: Mỹ Châu, Trọng Phúc, Tuyết Ngân
Giáng Hương - Mỹ Châu qua tầm nhìn khán giả, là 1 cô đào hát trung niên, 1 ngôi sao cải lương bậc nhất trời Nam; lại là 1 cá thể vui tính, lac quan, "cái vui là tánh trời cho những cô đào" (bản lý phước kiến); bình dị, thân mật, tự tin... đó là bản chất. Điều đáng ngưỡng mộ ở Giáng Hương hiển thị ở cái tâm yêu nghề, xả thân cho nghiệp tổ để phụng sự khán giả ân nhân; cô là điển hình những nghệ sĩ chân chính. Tục ngữ có câu: "người ta chết vì thịnh danh"! Giáng Hương mất nhà, mất xe, mất luôn cả chồng (Lĩnh Nam) vào tay 1 người đàn bà giàu tiền (nhờ lấy Mỹ) nhưng nghèo nhân cách. Cô ta (Mỹ Tiên) tung số bạc to giúp Lĩnh Nam lập 1 đại ban với đường lối giải trí, câu khách rẻ tiền phi nghệ thuật; trong lúc ấy đoàn hát chính kịch của Giáng Hương bị khủng hoảng tài chính, có nguy cơ tan rã. "Anh Nam đã bị quyền lực của tiền bạc lôi cuốn vào 1 mê cung không có lối thoát, nghệ thuật đã lùi vào bóng tối", Giáng Hương phiền muộn tâm sự cùng Quốc Sơn, 1 người bạn thân cận. Từ cảnh thái tươi vui, cô bị lôi vào chuyện cải vả với Lĩnh Nam và Mỹ Tiên về vai diễn, vở diễn, ghen tuông, đau khổ, thất vọng, tuyệt vọng... Trạng thái tâm lý biến chuyển nhuần nhuyễn qua ánh mắt, cơ mặt, sắc mặt... Mỹ Châu đã diễn rất máu lửa qua ngôn phong sắc bén, đắt giá, ngồn ngộn tính nhân văn, khúc triết, thâm thúy đến nao lòng.
Lớp đặc sắc nhất: Lĩnh Nam, Mỹ Tiên công khai tuyên bố sẽ thành hôn. Giáng Hương: "Cậu yêu cái này được sao? nhìn kỹ lại, cái này là tiêu biểu cho những gì cậu ghét nhất ở 1 người đàn bà; và làm sao cậu có thể nhét người này vào trái tim cậu được khi nó có 1 sân khấu đang nằm trong ấy; và sân khấu đó là tôi, là tôi..."
Văn chương của bác Năm Châu trác tuyệt; nó chẳng những nâng nội dung kịch bản lên tầm cao siêu, mà lại là chất men nghệ thuật tác động khẩn cấp, lan tỏa, thâm nhập tâm cảm người diễn khiến họ nhập hồn nhân vật và thể hiện theo như sự thôi miên, mộng du. Và Mỹ Châu và các diễn viên khác đã cùng nhau thêu dệt nên 1 tổng thể trình thức, càng xem càng ngây ngất. Sự ngây ngất dễ gây nên ào giác từ người xem. Không còn là Mỹ Châu, Trọng Phúc, Tuyết Ngân mà hiển hiện 1 Giáng Hương bị thương, 1 Lĩnh Nam mê muội, 1 Mỹ Tiên trơ tráo.
Lĩnh Nam:
Đời tư của tôi không bao giờ lệ thuộc công chúng. Giáng Hương:
Bạc bẽo, vô ơn! Công chúng đã đẻ ra cậu, cậu phải trả ơn cho công chúng. Những tác phẩm cậu diễn, quần áo cậu mặc, chiếc xe cậu đi, cái nhà cậu ở là của công chúng cho cậu... Cả đến sự lựa chọn nhân tình hay vợ cậu cũng phải làm theo ý công chúng... Toàn là những câu thoại tả thực, thâm sâu lay động cả 2 phía: khán giả và diễn viên để sinh ra hiệu ứng 2 chiều: cảm thụ cao, cống hiến đặc sắc.
Sự mù quáng và đồng bóng của Lĩnh Nam và Mỹ Tiên đẩy Giáng Hương đến trạng thái suy sụp và tuyệt vọng. Mấy câu vọng cổ 1, 2, 3 Mỹ Châu thi triển rất não nùng xót xa vừa đạt độ cao bi thảm, vừa giải mã trọn vẹn nội dung ca từ, lại vừa đạt đến kỹ thuật sắc bén bộ nhịp, tưởng như chưa bao giờ cô ca tài tình như vậy.
Lĩnh Nam chạy theo Mỹ Tiên, Giáng Hương như mất tất cả: người chồng thương yêu, người bạn diễn đẹp đôi; 1 đoàn hát nguy cơ tan rã; 50 người lâu năm gắn bó với vợ chồng nàng trước nguy cơ thất nghiệp; lại còn vụ kiện mà thế thất nghiêng về kẻ đang khánh tận vật chất lẫn tinh thần. Mỹ Châu đã rất nhuần nhuyễn đắm mình vào bi kich đời nghệ sĩ Giáng Hương kiêm bầu gánh, nặng oằn trách nhiệm với gia đình, tổ nghiệp, tập thể cộng tác. Mảng hiện thực tối tăm của hậu trường sân khấu được Mỹ Châu giới thiệu - triển lãm qua diễn ca gây nên niềm thương cảm lớn cho những ai hằng tâm với nghệ thuật sàn diễn.
Sự hữu hạn của sức chịu đựng nảy sinh áp lực khiến Giáng Hương rũ bỏ tất cả, giã từ đời sân khấu: "Tôi muốn được đưa nắm tay thật cao để gởi lời chào biết ơn bao khán giả tri ân đã hằng mấy muơi năm ái mộ..." Mỹ Châu mức nở với 2 câu vọng cổ 5, 6 nghe mà tái tê thương cảm.
Vương mang nghiệp tổ, nói bỏ là bỏ được chăng? Hai người giúp việc đoàn hát là chị Sáu và Ba Hoài rất trung thành,luôn cảm thông, an ủi cô chủ thân yêu, cùng gắn bó cận kề cô trong cơn bỉ cực bằng tấm tình chân chất, bộc trực. Khuyên bảo cạn lời mà Giáng hương vẫn cương quyết cất bước ra đi, Ba Hoài kêu lên: "Mợ"!... rồi gọi giật giọng: "Giáng Hương"! Tiếng thét như cái thắng buộc Giáng Hương phải dừng bước, nhạc tân trổ lên rộn rã. Giáng Hương tròn mắt ngạc nhiên quay đầu lại. Xưa nay vẫn gọi là mợ, cớ sao Ba Hoài dám gọi như thét cái tên Giáng Hương? chính Ba Hoài cũng tròn mắt ngac nhiên chết lặng vì lỡ lời, thô bạo gọi tên người mình kính trọng bấy lâu 1 cách sổ sàng giận dữ. Giáng Hương - Mỹ Châu định tiếp tục cất bước; nhưng sự kinh ngạc chưa vơi (với đôi mắt mở to nhìn theo góc hình nghiêng-phiến diện). Một khoảnh khắc tuyệt đẹp về diễn xuất tạo hình cũng như ghi hình! Một lớp diễn bằng vàng của Mỹ Châu và Hữu Tài, dù chỉ trong tích tắc mấy giây với 2 lần quay đầu nhìn Ba Hoài!
Giáng Hương:...
Tôi, trước hết, tôi phải lo hạnh phúc của riêng tôi...tôi sống với cuộc đời người đàn bà thường/ Ba Hoài:
Người đàn bà thường đó không có, chỉ có Giáng Hương của sân khấu mà thôi. Cái tên Giáng Hương không phải của mợ làm ra, mà là của những người xung quanh mợ,trong đó chị sáu và tôi là những kẻ vô danh. Mợ phải sống và chết ở đây, dưới ánh đèn sân khấu này.
Lớp diễn tuyệt đến nổi có cảm giác không phải lời của Ba Hoài "lên lớp" Giáng Hương, mà chính tổ nghiệp hiển linh mượn phàm khẩu của Ba Hoài mà "thay lời muốn nói". Giáng Hương đánh rơi chiếc ví trong tâm trạng khích động của sự bừng tỉnh trước tia sáng cuối đường hầm, Ba Hoài trân trọng trao tay cô chủ quyển kịch bản:
Đây vở kịch, là sự sống của đoàn. Mợ trở lại, can đảm lên! 50 người sau lưng mợ, hàng vạn người trước mặt mợ. Mợ sẽ thành công; cậu Nam thất bại, rồi sẽ trở lại.
Những câu thoại hay được dẫn chứng nhiều trong bài, bởi văn phong soạn giả gắn chặt cá tính nhân vật; 1 phong cách văn ẩn chứa chất xúc tác của kịch tính gợi khơi hành động (diễn).
Có thể mạnh dạn nói rằng: Giáng Hương là vai để đời danh giá nhất sự nghiệp sân khấu của Mỹ Châu. Và nếu so sánh với Giáng Hương-Thanh Nga, thiết nghỉ không còn từ nào chính xác hơn là, kẻ tuyệt vời, người tuyệt diệu!
Lĩnh Nam - qua khẩu ngôn của Giáng Hương - là 1 chàng kép điển trai vô song, xứng hợp với các nhân vật "hiệp sĩ anh hùng", những trang mã thượng phong lưu tình tứ vô cùng... gương mặt cậu đẹp như Tống Ngọc, Trường Khanh... Mỗi khi cậu cất giọng ca như chuông vàng ngân trên điện Thánh (câu vọng cổ số 1). Ngẫm ra thích hợp nhất với vai Lĩnh Nam, không ai đủ chuẩn bằng Trọng Phúc và Kim Tiểu Long. Trọng Phúc đã đảm nhận vai Lĩnh Nam với giọng hát như chuông vàng ngân trên điện Thánh. Trọng Phúc ca truyền cảm sắc sảo hấp dẫn, mang tầm vóc của Hữu Phước, Hà Bửu Tân. Về diễn xuất của Phúc, cố tìm chổ yếu để góp ý, nhưng "hổng có"; bởi, có lẽ như trình thức diễn xuất đã được lập thành. Và trong trình thức ấy có mấy nét diễn khiến tôi phải... cười. Đó là lúc Mỹ Tiên vừa đến nhà, Lĩnh Nam thật "hí hửng" cười chào, nét "hí hửng" rất trai tơ của 1 người đàn ông "dạn tình".
Tuyết Ngân vào vai Mỹ Tiên, thoạt xuất hiện, xuýt nhận không ra nếu không đọc bảng phân vai trên generique. Tuyết Ngân sáng hẳn lên với phục trang thích hợp với nhân vật và thể hình của diễn viên. Tuyết Ngân như lột bỏ cái sắc, cái thần của các vai chính diện cố hữu để trở thành cô me Mỹ dày dạn kiểu sát thủ tình trường. So với Mỹ Tiên - Ngọc Giàu khi xưa, Tuyết Ngân chẳng kém tí nào từ ca đến diễn, từ diễn nội tâm, đến biểu lộ ngoại hình qua mắt, môi, cơ mặt, tay chân như 1 tổng thể nhất quán, sôi động. Về ca, Ngân điêu luyện các thể loại trong vai. Hấp dẫn nhất là lớp Đảo ngũ cung thi thố cùng Mỹ Châu. Bản ca được thiết kế đúng kịch huống, ca từ gãy gọn, sắc bén. Cả hai đã mặt tình thao túng cung đàn, khung nhịp bằng hơi giọng chuẩn, dồn chữ, nhảy lót... Qua vai này, Tuyết Ngân đã tiến 1 bước dài.
Cúc Lan Hương của Phượng Loan xuất hiện ít, nhưng cô đã kịp ghi lại tiềm năng diễn lẵng. Từ lớp ca diễn bản Lạc âm thiều (giới thiệu tài năng trước Giáng Hương) đến hí lộng lớp bi (chồng chết) thành hài 1 cách lố lăng - mà duyên dáng - gây ấn tượng tốt, kéo giảm chất bi của vở, làm tiền đề cho cuộc tái hợp của Giáng Hương - Lĩnh Nam; nhưng cũng đồng thời lớp diễn trên gây "nhột" cho những ai ngộ nhận về... phương pháp thể hiện.
Quốc Sơn của Đức Minh là 1 quý ông giàu có, hiền lành, yêu nghệ thuật cải lương, mê Giáng Hương qua hình tượng nhân vật mà không hề gợn chút tà ý. Giáng Hương và Lĩnh Nam đều hiểu rõ tâm tính của Quốc Sơn nên xem ông ta như thân nhân. Mấy câu chót bản lý phước kiến:
"Giáng Hương! thế gian cũng chẳng thiếu chi những tay chỉ đợi chợ chiều mà đi, tìm mua những trái mơ".
Toàn nhũng ca từ mang tính ẩn dụ thay lời nói trực diện cùng thần tượng. Đức Minh đã trình diễn 1 Quốc Sơn tốt bụng, chung tình với cải lương lúc thịnh lúc suy, cũng như với đôi bạn Lĩnh Nam - Giáng Hương. Thái độ phù suy của Quốc Sơn: khi đoàn hát lâm nguy, Lĩnh nam bỏ đi, Giáng Hương chồng chất nợ nần, ông vẫn tiếp cận động viên, giúp đỡ Giáng Hương chân thành, bất vụ lợi. Vai diễn như tạo tác riêng cho Đức Minh với bản chất hiền hòa, trầm lặng. Anh đã ca diễn chuẩn mực, rất đạt với làn hơi đẹp, êm đềm như dòng phù sa âm thầm chảy từ thượng nguồn về biển cả để bồi đắp bến bờ nghệ thuật; 1 sự cống hiến không cần khoa trương; yêu nghề, theo nghề như 1 duyên mệnh, tổ nghiệp ban bao nhiêu, hưởng bấy nhiêu; cưỡng cầu chắc đâu được. Quốc Sơn cũng lành tính như Đức Minh. Đáng lẽ thấy Mỹ Tiên áp đảo, lấn lướt Giáng Hương, Quốc Sơn phải động nộ và bày tỏ thái độ. Nhưng cho đó là chuyện riêng tư của đàn bà - có lẽ ông nghỉ vậy - nên chỉ hết lòng giúp đỡ Giáng Hương. Vì động đến Mỹ Tiên e mích lòng Lĩnh Nam. Quốc Sơn của Đức Minh hiền hòa thế ấy, nhưng lại đầy nam tính người quân tử. Phong độ ca của Đức Minh vẫn tốt, rất đáng khen.
Anh Vũ (vai kịch vụ), Hữu Quốc (Hữu Dũng) đều tròn vai ở tầng số tốt. Hữu Tài và Bích Thủy đều rất xuất sắc, ít đất nhưng đất tốt, dễ cày xới.
Nhìn chung, tổng thể vở SKVK đạt độ gần hoàn chỉnh; 5 vai quan trọng đều đạt đỉnh cao. Một công trình rất đáng được bảo lưu.
Hồ Quang ( Báo Sân Khấu)