“Người xưa” mà NSƯT THANH NGUYỆT đã gặp và mong được gặp chính là những vở cải lương vang bóng một thời. Với bà những vai diễn đó sẽ là ký ức đẹp để bà luôn đưa vào cảm xúc thật đầy những giá trị nhân văn mà bà đã trải nghiệm. Vở tuồng cải lương “bóng tối và ánh sáng” (TG: HOA PHƯỢNG – NGỌC LINH) chính là “người xưa” mà bà đã gặp. Ngày ấy, cách đây hơn 35 năm, nsưt thanh nguyệt đã để lại dấu ấn đậm nét trong lòng công chúng mộ điệu cải lương với vai loan trong vở diễn này.
KỲ 1: GẶP LẠI NGƯỜI XƯA
* Chắc trong lần tái ngộ đó có nhiều kỷ niệm ùa về với bà?
- Khi biết vở diễn này được dựng lại cho chuyên mục “Những vở cải lương vang bóng một thời” của Trung tâm HTVC Thuần Việt, do đạo diễn – NSƯT Trần Minh Ngọc dàn dựng, tôi vui lắm. Không thể diễn vai Loan nên tôi đã vào vai bà Chín – người vú nuôi trong gia đình tiểu tư sản Thế Nam (vai của NS Ngọc Nuôi trước đây).
Lúc đầu, tôi phân vân không dám nhận lời vì e ngại mình đã có tuổi, sợ diễn có gì sơ xuất, không đúng ý đồ dàn dựng của đạo diễn thì rất uổng. Nhưng những ngày trên sàn tập, khi vào tuồng rồi tôi lại thấy mình vẫn nhớ như in, nhớ chính xác từng lời thoại, câu ca; nhớ từng tích tắc, cách xử lý tình huống trên sân khấu ngày xưa.
Và chính vì lẽ đó mà trong những ngày tập tuồng, tôi và NSƯT Hùng Minh cũng đã hổ trợ, góp ý cho các nghệ sĩ trẻ rất nhiều với mong muốn vở diễn thật hoàn chỉnh. Và khi ra diễn, nhìn NSƯT Thoại Mỹ (vai Vân) ngồi trên chiếc xe lăn, bất giác tôi lại thấy bùi ngùi nhớ đến cố NSƯT Thanh Nga.
Với tôi, ngày ấy về cộng tác với đoàn Thanh Minh – Thanh Nga không lâu, nhưng tôi và cố NSƯT Thanh Nga thân nhau như chị em ruột thịt. Những vai diễn của tôi luôn được NSƯT Thanh Nga hướng dẫn tỉ mỉ từng chút một.
Đó là những kỷ niệm đẹp mà tôi không bao giờ quên. Những “Người xưa” mà tôi mong muốn được gặp, để được góp phần nhỏ bé của mình vào việc giữ gìn bảo tồn những di sản sân khấu như những viên ngọc lấp lánh không mòn đi theo thời gian.
* Ngày nay khi sân khấu cải lương không còn hưng thịnh như xưa, không còn tất bật với những show diễn, những vai tuồng, bà có cuộc sống thật bình lặng bên chồng là NS Quốc Nhĩ cùng gia đình câu con trai và hai đứa cháu nội. Với bà, hạnh phúc đó không có gì sánh bằng?
- Thỉnh thoảng tôi cũng nhận lời mời tham gia đóng phim. Nhưng vì lý do sức khỏe không cho phép lại thêm không biết đi xe, nên những khi đi quay phim, ông nhà tôi thường phải đưa – đón, thậm chí có khi ông phải chờ đến 4 – 5 giờ sáng. Thấy vậy, tôi xót nên chỉ những vai diễn nào thật sự phù hợp, tôi mới nhận lời.
Đúng là niềm hạnh phúc nhỏ bé của người nghệ sĩ chính là mái ấm gia đình. Tôi có một điểm tựa vững vàng đó là ông xã và cũng là người đã tuyên truyền lại cho tôi nhiều niềm đam mê để cùng ông ấy giữ sáng ngọn lửa yêu nghề.
* Nhiều nghệ sĩ trong lĩnh vực sân khấu, điện ảnh, ca nhạc, dù hiện nay có người đã trên dưới tuổi thất thập cổ lai hy nhưng vẫn là dấu khắc đậm đà trong lòng người mộ điệu. Bà có nghĩ mình sẽ tiếp tục làm nghề, vượt qua sự khó nhọc của sức khỏe để gắn bó với sân khấu, với điện ảnh?
- Ở tuổi 69, tôi luôn được những chương trình quảng cáo mời đóng các vai nội ngoại trong một gia đình hạnh phúc. Tôi sinh năm 1947 tại Bạc Liêu. Cha là người nuôi giấu cán bộ, bị bắt ở tù mấy năm. Tôi phải nghỉ học phụ má nuôi đàn em thơ dại. Khi cha mãn hạn tù trở về, ông mất sức luôn, không làm được gì. Một hôm, ông gặp lại người bạn cũ trong một gánh hát, dẫn ông này về nhà chơi.
Ông trông thấy tôi liền khen: “Con nhỏ mặt mũi sáng láng quá! Nó có biết ca không?”. Cha tôi nói: “Tôi thấy nó đọc kinh hay lắm, chứ ca thì chưa nghe!”. Gia đình đạo Cao Đài, kinh đọc nghe vần điệu ngân nga. Nhưng không ngờ, tôi đã được ông Năm trong xóm dạy cho bài vọng cổ duy nhất “Lắng tiếng chuông ngân”, mà bài này gắn với tên tuổi nghệ sĩ Thanh Nga đang nổi như cồn lúc bấy giờ.
Tôi đã ca thử, được ông khách trầm trồ: “Ủa, sao giọng hơi ca của con nhỏ này giống Thanh Nga vậy!”. Thế là ông giới thiệu tôi cho Đài phát thanh tỉnh Bạc Liêu, mỗi tuần lên hát một lần, ai cũng thích thú. Lời đồn đế tai ông bầu Bảy Cao, ông liền đem tôi về đoàn Hoa Sen cho làm đào, vì lúc ấy tôi đã 16 tuổi. Nhưng vô đó rồi mới hoảng hồn vì ca rớt nhịp tùm lum.
Nhạc sĩ Tuyết Mai thương tình kèm cặp thêm, cho tới ngày tôi lên thay cô đào chánh thì sự nghiệp cứ thẳng đường mà đi. Tôi cố gắng học hỏi, trau dồi kiến thức và nghề hát, để anh em trong đoàn đều quý mến, các thầy tuồng đều chăm chút cho tôi qua từng vai diễn.
Nói thật, có lẽ nhờ thế hệ chúng tôi hồi đó siêng năng, không xem thường nghiệp tổ nên đều có thể gắn bó với nghề cho đến năm nay ai cũng đã gần 70 tuổi mà vẫn còn được khán giả yêu mến. Nếu có đủ sức khỏe tôi vẫn tiếp tục gắn bó với sân khấu, với điện ảnh, để dìu dắt, chỉ bảo đàn em.
* Sau năm 1975 bà về đoàn cải lương Trung Hiếu, Thanh Minh – Thanh Nga, Nhà hát Trần Hữu Trang. Khán giả ấn tượng nhất vai bà mẹ du kích trong Hòn đảo thần vệ nữ đã sóng đôi với nghệ sĩ Thanh Vy làm nên cái đẹp bi tráng trong chiến tranh. Vai nữ tướng Lê Chân trong Tiếng trống Mê Linh, vai Thái hậu Dương Vân Nga, Kiều Nguyệt Nga, Thị Bình (Lôi Vũ)… đều rất chuẩn mực. Nói về những “người xưa” này, bà nhớ nhất điều gì?
- Sự chăm chút trong diễn xuất. Từ vai xã hội cho đến vai diễn trên sân khấu tuồng cổ, lối diễn xuất cải lương xưa thường rất mộc mạc, đơn giản để khán giả dễ cảm nhận. Các động tác càng nhỏ càng nhanh, khi lên sân khấu càng cần tăng cường những cảm xúc chung quanh lời ca, điệu hát thì khán giả mới kịp nhận thấy.
Kiểu cách đi đứng còn dùng để biếu lộ cái “tâm” của nhân vật thiện, ác. Nhất nhất đều phân thành từng bộ riêng, không thể diễn bộ “Trung” cho vai đứa “Hèn” hay vai “Nịnh”. Thậm chí lên ngựa xuống ngựa còn phân biệt Bộ của trung tướng khác bộ dạng nĩnh thần. Mọi động tác đã thành thông lệ hay ước lệ.
Nhất là thời vào trước khi kỹ thuật âm thanh và ánh sáng chưa đáp ứng được cho nghệ thuật trình diễn, hình ảnh diễn xuất chưa thể kéo lại nhìn gần, không thể “trung cảnh”, “cận cảnh”, làm tăng cường độ các động tác giúp khán giả xem được toàn cảnh, dù ngồi xa hay gần chiếu diễn (sân khấu) đều nhìn thấy.
Nói chung, chúng tôi được phân tích kỹ lưỡng để vai diễn nào ra vai diễn nấy. Tôi nhớ những bạn diễn đã cùng tôi tạo nên bức tranh tuyệt đẹp cho sân khấu, đó là những “người xưa” mà tôi muốn được gặp lại trong những ngày tháng còn gắn bó với sân khấu.
* Để đúc kết cho nghề, bà thường tìm hiểu thêm những bộ môn nghệ thuật khác. Điều gì mang lại cho bà nhiều cảm xúc nhất?
- Âm nhạc trong Tuồng. Không biết sao khi nghe tiếng trống, tiếng kèn lá, hoặc những điều hát khách, là trái tim tôi rộn vang. Âm nhạc trong Tuồng đóng một vị trí vô cùng quan trọng, có sức thu hút kỳ lạ, thôi thúc mọi người đến xem hát. Dàn nhạc Tuồng chủ yếu làm nhiệm vụ hổ trợ trong biểu diễn của diễn viên.
Trong dàn nhạc Tuồng gồm có bộ gõ: (trống, thanh la, mõ…), bộ hơi (kèn, sáo, chủ yếu là kèn); bộ dây (nhị, cò, hồ, đại, tiểu…) bộ gảy (tam, tứ, nguyệt…). Qua tìm hiểu tôi biết nhạc trong Tuồng gồm hai bộ phận chủ đạo: khí nhạc (dàn nhạc) và thanh nhạc. Số lượng nhạc cụ trong dàn nhạc Tuồng không cố định về số lượng.
Một dàn nhạc cổ thường gồm có: trống chầu, trống chiến – được mệnh danh là vị phó sư của dàn nhạc, kèn, thanh la. Về sau có thêm trống trận, trống cơm, trống bồng, trống lệnh, trống bản, đàn nhị, sáo, chập chõa, não bạt… Hiện nay, tùy theo quan điểm thẩm âm của từng vùng, quy mô, số lượng nhạc cụ trong mỗi dàn nhạc cũng có điểm khác nhau. Học hỏi và tìm hiểu thêm cho nghề sẽ giúp mình có nhiều kiến thức để áp dụng cho vai diễn của mình.
* Về kỹ thuật hát, diễn viên hát Tuồng ngoài chất giọng bẩm sinh, cần phải học tập, rèn luyện lâu dài. Sân khấu Tuồng ngày trước thường hát ngoài trời nên cần có chất giọng vang to, ngân dài và khi tập cần phải dùng sức rất nhiều. Trong khi học cách phát âm, nhả chữ, họ phải luôn tuân thủ những luật hát rất nghiêm ngặt. Đây là tập hợp những kinh nghiệm, thói quen về ngữ âm, nhận thức thẩm mỹ về thanh nhạc trong nghệ thuật Tuồng của từng địa phương. Bà có nhận thấy điều này?
- Tôi thường xem và yêu thích tích Tuồng xưa của hát bội và của tuồng. Diễn viên hát Tuồng phải phát âm chính xác các dấu, rõ tiếng, không bị biến âm, không nói ngọng. Vì vậy trước khi tập hát, các diễn viên thường tập nói, luyện ngữ âm, ngữ khí trong các kỹ thuật nói lối như một trong những phương thức nghệ thuật tinh tế nhắm biểu hiện cảm xúc của nhân vật đến với người thưởng ngoạn.
Có thể xem đây như một trong những ngôn ngữ mang đậm yếu tố tượng trưng trong Tuồng. Ngoài ra, người học hát Tuồng luôn tuân thủ nguyên tắc: trống/mái (theo qui luật âm/dương như trong Kinh dịch). Chính vì những đặc trưng nêu trên, không thể nghiên cứu nghệ thuật thanh nhạc trong Tuồng như phân tích kỹ thuật hát một ca khúc.
Đặc trưng của ăm nhạc truyền thống Việt Nam là tính ngẫu hứng . Điều này cũng đã không ngoại lệ đối với Tuồng, vì vậy, cần nhìn phương diện thanh nhạc trong Tuồng “bằng cái nhìn đối với một lời nói sân khấu bằng thơ được âm nhạc hóa”. Tôi thích những vai diễn trên sân khấu Tuồng lắm, đó là những bức tranh sinh động nhất của nghệ thuật dân tộc.
Cải lương cũng từ những kinh nghiệm hát tuồng mà biến ngẫu, mà áp dụng với âm nhạc ngũ cung, giản dị đơn sơ nhưng chất chứa biết bao tình. Tôi may mắn là được gắn bó với nghề cho đến ngày hôm nay và là một nghệ sĩ của sân khấu dân tộc.
HẠNH PHÚC BÌNH DỊ
Nói đến Thanh Nguyệt là nhớ ngay đến người chồng của bà, nghệ sĩ Quốc Nhỉ trong vai Đông Bản vở Tiếng trống Mê Linh. Một Đông Bản mộc mạc, nghĩa khí đã thay mặt tướng sĩ đòi tiến công diệt quân Hán xâm lăng, từ đó tiếng trống của ông cụ Đô Trinh – Ba xây mới cất lên hào hùng. Đông Bản chỉ xuất hiện trong vài lớp diễn ngắn nhưng khán giả rất ấn tượng. Và ông là điểm tựa cho NSƯT Thanh Nguyệt cho đến ngày hôm nay.
Nghệ sĩ Quốc Nhỉ nhờ Tiếng trống Mê Linh se duyên với Thanh Nguyệt, rồi ông nhẫn nhịn nuôi đứa con riêng của vợ, thương như con ruột. Ông hiền lành, bà chung thủy, đảm đang. Vợ chồng già hủ hỉ với nhau trong căn nhà nhỏ ở Gò Vấp con trai và cháu nội ở gần đó cứ chạy tới chạy lui thăm viếng. Đó là hạnh phúc bình dị của vợ chồng nghệ sĩ Quốc Nhỉ, Thanh Nguyệt hiện nay.