NSND LỆ THUỶ LÀ MỘT ĐÀO THƯƠNG TÀI DANH CỦA SÂN KHẤU CẢI LƯƠNG NAM BỘ, CHỊ HỘI ĐỦ 5 YẾU TỐ: THANH - SẮC - ĐỨC - TÀI - DUYÊN.
TRÊN DƯỚI NỮA THẾ KỶ QUA, CHỊ LUÔN THÀNH CÔNG NHỮNG VAI ĐÀO CHÁNH MÙI Ở NHIỀU ĐẠI BAN CẢI LƯƠNG, TỪNG LÀ CẶP "BÃO BIỂN" TRÊN SÂN KHẤU KIM CHUNG V TRƯỚC 1975 ĐÃ LẪY LỪNG MỘT THỜI VANG BÓNG ; ĐẶC BIỆT LÀ HUY CHƯƠNG VÀNG GIẢI THANH TÂM NĂM 1964. SAU NĂM 1975 CHỊ TIẾP TỤC THÀNH CÔNG NHIỀU VAI DIỄN, ĐÃ LÀM NỨC LÒNG KHÁN GIẢ KHẮP CẢ NƯỚC.
NẾU TRƯỚC NĂM 1975, NSND LỆ THỦY GHI LẠI DẤU ẤN SÂU ĐẬM TRONG LỊCH SỬ CẢI LƯƠNG VỚI NHỮNG VAI DIỄN KIẾM HIỆP THÌ SAU NĂM 1975 CHỊ LẠI CÓ NHỮNG VAI DIỄN VỀ ĐỀ TÀI TÂM LÝ XÃ HỘI ĐỂ ĐỜI; ĐẶC BIỆT LÀ VAI NGUYỆT TRONG "TÔ ÁNH NGUYỆT" ĐÃ KHIẾN CHO KHÔNG BIẾT BAO KHÁN GIẢ PHẢI KHÓC, CƯỜI VỚI CHỊ...
NS:Lệ Thủy-Út Hậu
TỪ KHỞI NGHIỆP ĐẾN THỜI VÀNG SON
NSND Lệ Thủy (Trần Thị Lệ Thủy), sinh ra ở Vĩnh Long (1948) nhưng lớn lên ở Sài Gòn. Gia đình chị ngày xưa ở Vĩnh Long không khá giả, một lần lại bị cháy nhà nên cha mẹ chị quyết định lên Sài Gòn lập nghiệp (Quận 4). NSND Lệ Thủy không phải là con nhà nòi hay dòng họ có truyền thống về nghệ thuật, chị trở thành một tài danh của Cải lương có lẽ là do duyên tiền định.
Ngày xưa ở Quận 4, nhà NSND Lệ Thủy ở Khánh Hội gần một tiệm sửa radio - casette, nên hằng ngày chị được nghe ca cổ - Cải lương mà không phải tốn tiền. Lúc đó chị thích và chú ý giọng ca của NS Thanh Hương (con gái NSND Năm Châu), với bài vọng cổ "Cô bán đèn hoa giấy", rồi chị cũng ca theo khi ngẫu hứng . Như bị nhiễm giọng của NS Thanh Hương và bài "Cô bán đèn hoa giấy", Lệ Thủy ca đi ca lại và trở thành bài ruột. Những người trong xóm nghe chị ca ai nấy đều khen và tiên đoán rằng: "Lệ Thủy chắc sau này trở thành nghệ sĩ nổi tiếng cho mà coi, vì ca hay lại đẹp người, đẹp nết nữa".
Ở xóm chị có nghệ nhân Năm Truyền đờn kìm, ông thấy chị có làn hơi chất giọng tốt, nên ông nhận dạy cho chị nhịp nhàng, hơi điệu và kỹ thuật ca Vọng cổ. Ở xóm lại có Ban Tài Tử - Cải lương của ông Tư Long và ông cũng chú ý đến giọng ca của Lệ Thủy, nên ông nhờ nghệ nhân Năm Truyền xin cho Lệ Thủy gia nhập vào Ban Tài Tử - Cải lương của ông. Như vậy, nghệ nhân Năm Truyền là người Thầy đầu tiên và ông Tư Long là người thầy thứ hai dìu dắt Lệ Thủy bước vào con đường nghệ thuật đầu đời.
Sau một thời gian học ca ở nghệ nhân Năm Truyền và rèn luyện ở ban văn nghệ của ông Tư Long, thêm vào đó là tự học của Lệ Thủy gián tiếp ở nhiều nghệ sĩ qua dĩa, đài, sân khấu...chị đã có vốn liếng ca diễn. Sau đó Lệ Thủy vào gánh cải lương Trâm Vàng (1960). Hai năm sau đó Lệ Thủy bắt đầu hát đào chánh (1962) và đoạt giải Thanh Tâm năm 1964.
Khi NS Lệ Thủy về Kim Chung V hát chánh với NSUT Minh Phụng, là thời kỳ vàng son của chị được báo giới tôn tặng là cặp "Bão biển" của SKCL lúc bấy giờ.
Có thể nói đây là giai đoạn mà NSND Lệ Thủy thành công và định hình sở trường với những vai kiếm hiệp. Những vai nổi tiếng của chị thời đó như: Hồ Như Thủy trong "Xin một lần yêu nhau", Bạch Thiên nga trong "Máu nhuộm sân chùa", Hồ Bảo Xuyên trong "Đêm lạnh chùa hoang"...
Năm đầu Giải phóng (1975) NSND Lệ Thủy hát đào chánh cho Đoàn CL Sài Gòn II, những vai nổi tiếng như: Cẩm Nhung trong "Lỡ bước sang ngang", Hiền trong "Ánh lửa rừng khuya"... Kế đó, chị về Đoàn Văn Công TP.HCM với vai Hạnh trong "Cây sầu riêng trổ bông " là vở vang tiếng khắp cả nước, ăn khách doanh thu cao suốt năm năm liền.; đặc biệt còn là vở được phục vụ Đại Hội Đảng toàn quốc lần thứ IV-1976. Và vai đáng nhớ hơn là Xuân Hồng trong "Tiếng sóng Rạch Gầm" đoạt Huy chương vàng Hội diễn SKCNTQ-1980, rồi đoạt giải diễn viên Á toàn quốc - 1982.
Về Nhà hát Trần Hữu Trang lần thứ I, NSND Lệ Thủy có vai nổi bật nhất là Kate trong "Hòn đảo thần vệ nữ", rồi chị về Đoàn CL 2-84, chị để lại nhiều vai ấn tượng lúc bấy giờ, trong đó có thể ghi nhận những vai như Kim Anh trong " Đời cô Lựu" , Nguyệt trong "Tô Ánh Nguyệt", Xuân Tự trong "Áo cưới trước cổng chùa", Hương trong "Kiếp chồng chung", Lỗ Tứ Phượng trong "Lôi Vũ", công chúa Thiên Kiều trong "Trắng hoa mai", Ái Nhân trong "Lời ru của biển"...Chị trở lại Đoàn Văn Công TP lần II (1989-1994) với những vai tiêu biểu như: Mai trong "Nghiệp cầm ca", Thuỳ Trang trong "Một chuyện tình buồn", Lệ Chi trong "Lá thắm chỉ hồng"...
NSND Lệ Thủy không chỉ đầy nhiệt huyết với nghề, trong cuộc đời hoạt động nghệ thuật chưa ai phàn nàn gì về chị như làm eo làm sách hay tự mãn...Chị luôn tôn trọng và quý mến đồng nghiệp, không phân biệt cao thấp, tài danh hay sang hèn, thứ bậc; nhiệt tình giúp đỡ về nghề với những diễn viên trẻ...Khi sàn diễn không còn đủ sức chinh phục khán giả, NSND Lệ Thủy hoạt động độc lập theo show (1994). Từ đó đến nay, chị cùng bạn bè, người thân, mạnh thường quân của chị cùng tổ chức nhiều chuyến công tác từ thiện xã hội như cứu trợ đồng bào bị bão lụt thiên tai, người già neo đơn, bệnh nhân nghèo, học sinh nghèo hiếu học...ở nhiều nơi, liên tục nhiều năm qua...Có lẽ, một trong năm yếu tố của NSND Lệ Thủy , cái đức là ở chỗ này.
KHÁN GIẢ KHÓC - CƯỜI VỚI VAI NGUYỆT
Cái duyên của vai Nguyệt mà NSND Lệ Thủy biểu đạt là làm cho khán giả quên đi mình đang xem kịch, họ bị Lệ Thủy lôi cuốn vào số phận nhân vật của Nguyệt. Lúc Nguyệt vui tươi, hớn hở tâm tình với Minh, hồi hai người mới yêu nhau thì Lệ Thủy tỏ ra là một cô gái e dè, chân quê vừa thố lộ tình cảm kín đáo của mình một cách duyên dáng, ca diễn hồn nhiên như một cô thôn nữ hiền lành, chân chất...
Lệ Thủy đã tạo ra nét trữ tình trong cuộc hội thoại với Minh, những nét dịu dàng và mộc mạc đó rất đáng yêu; nhưng khi biến cố giữa hai gia đình Minh và Nguyệt không đồng nhất quan điểm "đả cựu nghênh tân - nghênh tân đả cựu" đã dẫn đến bi kịch tình yêu chân chính giữa Minh và Nguyệt. Số phận của Nguyệt lâm vào cảnh trái ngang, nghiệt ngã, tâm trạng khổ đau dằn xé trước tình yêu bị gãy đổ, vì sự chia cách của hai gia đình từ quan niệm phong kiến khắt khe. Nhưng có lẽ Nguyệt còn đau hơn khi bị cha Nguyệt buộc Nguyệt phải giao con của mình cho Minh...
NSND Lệ Thủy ca diễn lớp này đã làm cho biết bao nhiêu khán giả phải khóc theo chị diễn. Giọng chị trầm xuống, khi chị ca không ngọt ngào và trữ tình như lúc ca Vọng cổ, mà lúc này ca trong tâm trạng đau khổ của Nguyệt, ca như than vãn cho số phận đắng cay và trong làn hơi của chị như khuất đi độ ngân rung mà thay vào đó là ngữ điệu lên xuống của giọng ca như nấc nghẹn, nhất là câu nói: "Ba nói là ba thương con, nhưng sao ba lại cấm con thương con của con?"...; chị nói trong nước mắt, làm cho khán giả nao lòng và không cầm được nước mắt, nhất là những phụ nữ có con.
Đến lớp được tin Tâm (con trai của Nguyệt và Minh) đã lớn và sắp thành hôn, Nguyệt thêu cặp áo gối để tặng con trong ngày cưới. Niềm hạnh phúc của người mẹ vui mừng khi thấy con trưởng thành với tâm trạng vô tả, Nguyệt không biết chia sẻ cùng ai, chỉ bày tỏ với em trai mình là cậu Tân. Lúc này, NSND Lệ Thủy ca diễn chuyển qua trạng thái của người phụ nữ vô cùng hạnh phúc, vì chị đã làm được một việc vì con.
Lệ Thủy lại ca diễn tươi tắn, mắt ánh lên niềm sung sướng, gương mặt rạng rỡ hẳn lên khác xa với trước đó, dường như tâm trạng vui mừng lúc này Lệ Thủy biểu đạt như trước đó bản thân chưa hề đau khổ vì những tâm sự trái ngang... Nhiều người cho rằng, cái tài và cái duyên ca diễn của Lệ Thủy mà khán giả càng cảm tình, thương mến, chia sẻ với số phận trắc trở của Nguyệt; nếu diễn viên khác vào vai Nguyệt cũng ca diễn như thế, chưa chắc khán giả rung động và khóc cười theo nhân vật (?)...
Có lẽ, lớp Minh tìm đến Nguyệt để cho hay ngày cưới của Tâm, tuy là lớp không làm cho khán giả khóc, cười, nhưng lại làm cho khán giả thay đổi trạng thái là để chiêm ngưỡng nghệ thuật ca diễn của Lệ Thủy và Minh Vương. Soạn giả Trần Hữu Trang như đã định trước đây là lớp ca diễn của cặp đào kép chánh. Minh ca thể điệu Nặng tình và hai câu Vọng cổ (10 và 20), Nguyệt cũng ca hai câu Vọng cổ (5 và 6).
NSND Lệ Thủy vốn được thiên phú làn hơi chất giọng "Thổ pha kim", tức cao độ có thể xuống cực thấp, trầm hoá và khi cấn lên cao cũng có khả năng làm cho giọng trong và cao, vừa giảm thiểu học âm (do một chút pha kim tạo được âm bổng) của hơi khàn khàn. Chị buông hơi, nhả chữ khá tự nhiên nhưng âm giọng buồn buồn là do độ trầm lắng của chất "Thổ", thêm cái duyên và cái hồn hay nói khác đi, là tình cảm của Lệ Thủy gởi theo lời ca của mình âm thanh, tiếng ca sâu lắng, mùi mẫn và đầy cảm xúc. Khán giả vừa thỏa mãn tài duyên ca ngâm của NSND Lệ Thủy và NSUT Minh Vương trong cuộc hội thoại, người hối hận kẻ trách hờn thì lại chuyển sang một tâm trạng khác, đó là vừa tức giận Tâm vừa đau thương cho Nguyệt của Lệ Thủy.
Khi Minh về thì Tâm vô gặp Nguyệt có lời lẽ cấm đóan và xúc phạm Nguyệt, vì Tâm không biết Nguyệt chính là mẹ ruột của mình, còn Nguyệt (Lệ Thủy) biết con mà không thể nói nên lời để gọi là con. Lệ Thủy biểu đạt cảnh tình ngang trái đó, bằng ngữ điệu của người mẹ nói với con trong trạng thái đau khổ xót xa, pha chút nghẹn ngào và rơi nước mắt khi Tâm nói: "Bà là mẹ ai? Bà điên rồi hả? Bà là người đang tâm phá hoại hạnh phúc gia đình của người khác", rồi Tâm bỏ đi, Nguyệt của Lệ Thủy nghẹn ngào nói trong đau xót: "Không! Tôi không phá hoại hạnh phúc của người khác.
Tôi rất tôn trọng hạnh phúc của người khác - nhưng chẳng lẽ suốt đời tôi mất đi cái bổn phận - cái quyền làm mẹ nữa hay sao?... Lúc này , Lệ Thủy gào trong nổi xót xa, uất nghẹn qua vai diễn làm cho khán giả một lần nữa lấy khăn ra chậm nước mắt, có người sụt sịt khóc nức nở thành tiếng!...
Trong khuôn khổ bài viết có hạn, khó có thể nói hết được những tài - duyên trong nghệ thuật Cải lương của NSND Lệ Thủy và đạo đức của người nghệ sĩ này mà chúng tôi chỉ ghi nhận đôi điều ở vai Nguyệt của chị, là vai diễn để đời, vai diễn cảm hoá nhất, làm cho nhiều khán giả khóc - cười về chị.