Chương trình văn nghệ đêm thứ Sáu 17-12-2010. Địa Điểm : 32 Huỳnh Đình Hai, phường 24, Quận Bình Thạnh, TP HỒ CHÍ MINH. Gồm có 3 phần
PHẦN 1 : GSTS Trần Văn Khê giới thiệu
Đờn ca tài tử là thể loại nhạc thính phòng đặc thù của miền Nam, cũng như Ca trù của miền Bắc và Ca Huế của miền Trung.
Theo các bậc thầy trong nghề, Đờn ca tài tử hình thành vào cuối thể kỷ 19 đầu thế kỷ 20, xuất phát từ những nhạc sĩ, nhạc quan của triều Nguyễn theo phong trào Cần Vương vào Nam đem theo truyền thống Ca Huế. Trên đường đi họ dừng chân ở Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Nam, từ đó Ca Huế mang thêm chút âm hưởng xứ Quảng.
Vào đến miền Nam, Đờn ca tài tử không còn giữ nguyên chất Ca Huế mà thay đổi rất nhiều để thích nghi theo thị hiếu, thẩm mỹ phù hợp với nếp sống mới. Những con người tháo vát, đầy sáng tạo tuy đã tìm thấy một cuộc sống an lành khi đến với vùng đất màu mỡ, nhưng do lòng luôn thương nhớ cội nguồn nên trong các điệu, các hơi của Đờn ca tài tử thường thích những điệu có phảng phất nỗi u buồn. Trong khi phong cách miền Trung vẫn giữ theo truyền thống một cách chặt chẽ thì ở miền Nam lại phóng khoáng và bay bướm, nét nhạc cũng như tiết tấu thay đổi tùy lúc, tuỳ người.
Có người hiểu lầm rằng chữ “tài tử” có nghĩa là không chuyên nghiệp, mang tính cách giản dị của dân gian và của những người nghiệp dư. Thật ra “tài tử” có nghĩa là người có tài (Dập dìu tài tử giai nhân; Tài tử giai nhân tế ngộ nan). Chữ “tài tử” còn để chỉ việc không dùng nghệ thuật của mình làm kế sinh nhai. Người Đờn ca tài tử khi nào thích thì cùng với bạn đồng điệu họp nhau tại nhà một người trong làng rồi cùng hoà đàn để vui chơi và để cho người mộ điệu thưởng thức. Trước đây cũng như bây giờ, người đàn tài tử “chính thống” hễ vui thì đàn chơi còn không “hứng” thì thôi, khó ai có thể bỏ tiền ra mua được tiếng đàn của họ.
Nhưng không phải vì vậy mà trình độ nghệ thuật của đàn tài tử lại thấp. Muốn trở thành người đàn tài tử đúng nghĩa phải trải qua thời gian tập luyện khá công phu, học từ chữ nhấn, chữ chuyền, rao sao cho mùi, sắp chữ sao cho đẹp và luôn tạo cho mình một phong cách riêng.
Nhạc khí trong Đờn ca tài tử
Nhạc khí chính là đàn kìm (đàn nguyệt) và đàn tranh. Theo truyền thống, ít khi nhạc công độc tấu mà thường song tấu đàn kìm và đàn tranh với tiếng thổ pha tiếng kim, hoặc tam tấu (kìm, tranh, cò). Đôi khi có ống sáo ngang hay ống tiêu thổi dọc. Và đặc biệt là song lang (nghĩa là hai thanh tre già - có người gọi là song loan) để đánh nhịp. Ngoài ra còn có các nhạc khí khác như đờn sến, đờn gáo, đờn độc huyền, đờn tỳ bà nhưng ít thông dụng.
Từ khoảng năm 1930 có thêm những nhạc khí phương Tây như violon, mandoline khoét phím, ghi-ta măng-đô, ghi-ta Hạ-uy-di, ghi-ta Tây Ban Nha được chỉnh lại, thường gọi là ghi-ta phím lõm, để có thể “nói” trung thực, chính xác ngôn ngữ âm nhạc truyền thống Việt Nam.
Khác với Ca trù miền Bắc hay Ca Huế miền Trung mà lời ca quan trọng hơn tiếng đàn, trong Đờn ca tài tử dàn nhạc lại được chú ý hơn tiếng ca. Người nghe chú trọng vào chữ đàn nhấn có gân, cách sắp chữ, sắp câu duyên dáng, cách xuống câu đến xang, hò, xề… ngọt ngào uyển chuyển; cách đàn câu thòng, câu nhồi, câu lợi bay bướm, đa dạng. Nhưng tiếng ca cũng không kém phần quan trọng.
Những nét đặc thù của nghệ thuật Đờn ca tài tử
1. Rao: Trước khi vào bản thuộc hơi nào, nhạc công Đờn ca tài tử luôn có câu rao theo hơi đó, một mặt dẫn thính giả đi lần vào điệu, vào hơi để nghe bản đàn, đồng thời cũng là lúc nghe thử cây đàn có phím nào lệch hay dây đàn cứng quá hoặc mềm quá không, để lúc biểu diễn tiếng nhạc được hoàn chỉnh hơn.
Khác hẳn với những bài “dạo” của miền Trung luôn có nét nhạc cố định, câu “rao” theo truyền thống miền Nam phóng túng hơn nhiều. Mỗi người thầy có một cách rao, lúc đầu người học đàn theo cách của thầy, nhưng khi đạt đến mức nghệ thuật khá cao thì được phép sáng tạo những câu rao của riêng mình.
2. Chữ nhạc: Mỗi chữ nhạc không có cao độ tuyệt đối, chỉ có cao độ tương đối, cũng không có cao độ cố định mà có thể là một chữ đờn ‘non’ hay ‘già’. Nhiều chữ nhạc trong bản đàn được tô điểm bằng cách nhấn nhá, rung, mổ. Bàn tay mặt tạo ra những thanh có cao độ, trường độ, cường độ, màu âm, nhưng đó chỉ mới là cái “xác” của âm nhạc; phải nhờ bàn tay trái rung, nhấn để tạo nên cái “hồn” làm nên giá trị đích thực của nghệ thuật.
3. Những cách tô điểm đặc thù : Thường thì trong các loại nhạc tô điểm là điều không bắt buộc, nhưng trong nhạc tài tử, chính những cách tô điểm đặc thù, nhứt là cách đờn chữ ‘xang’, định rõ được các hơi Bắc, Quảng, Xuân, Ai khác nhau như thế nào.
4. Cấu trúc âm thanh: Đờn ca tài tử có cấu trúc ‘động và mở’ thay vì ‘tịnh mà đóng’ như phương Tây.
5. Phát triển và vận hành giai điệu: Khi hoà đàn, người Đờn ca tài tử không bao giờ lập lại y khuôn lòng bản như thầy đã dạy mà phải dựa theo quan điểm thẩm mỹ học chân phương, đàn hoa lá.
Đặc biệt cách phát triển và vận hành giai điệu trong Đờn ca tài tử tuân theo những nguyên tắc của dịch lý, một triết lý sống trong xã hội người Việt nói riêng và người vùng Đông Á nói chung. Theo đó thì con người và sự vật luôn thay đổi không ngừng, nhưng sự thay đổi đó không làm ta biến dạng vì có những yếu tố bất dịch không thể thay đổi được, nghĩa là có biến dịch mà cũng có bất dịch. Cũng vậy, trong đàn tài tử thì nét nhạc, chữ nhấn, chữ chuyền của mỗi câu trong bài bản có thể thay đổi tuỳ trường phái hay người đàn, nhưng lòng bản không thể thay đổi, do vậy dù cho người đàn có thêm chữ chuyền, có đổi nhịp nội ra nhịp ngoại thì người nghe vẫn nhận ra bản đàn.
Ngoài ra lại còn có giao dịch: khi có sự gặp gỡ của hai yếu tố thì phải thay đổi để không đi đến xung đột. Hoà đàn tài tử cũng vậy: nếu tỳ bà hoà với đàn kìm, vì cả hai có màu âm gần giống nhau nên thường thì đàn kìm chơi nhịp nội trong khi tỳ bà đàn nhịp ngoại để có sự hoà hợp.
6. Bài bản: Theo thường Đờn ca tài tử có 20 bài tổ, tuy không phải người Đờn ca tài tử nào cũng thuộc đầy đủ hay khi hoà đàn cũng không bắt buộc phải chơi hết 20 bài, nhưng các nghệ sĩ đều phải biết tên các bài đó bao gồm: 6 bài Bắc, 3 bài Nam, 4 bài Oán và 7 bài lớn (có khi gọi là 7 bài hơi nhạc hoặc 7 bài cò).
Ngoài ra còn có rất nhiều bài bản khác được dùng, trong đó Vọng cổ 32 nhịp là thông dụng nhứt. Trong một chương trình hoà nhạc Đờn ca tài tử lúc nào cũng có bài Vọng cổ.
Đờn ca tài tử theo đúng truyền thống
Một buổi Đờn ca tài tử thường không theo một chương trình sắp sẵn mà những người đồng điệu gặp nhau, cao hứng muốn đàn bản gì thì tất cả cùng hoà với nhau.
Ngày xưa buổi hoà nhạc bắt đầu bằng những bản đàn, bài ca điệu Bắc, hơi Bắc vui tươi; tiếp theo chuyển sang hơi Quảng, hơi Nhạc, hơi Hạ; rồi qua điệu Nam, hơi Xuân, hơi Ai, qua Đảo ngũ cung. Phần cuối bao giờ cũng chuyển qua hơi Oán, Ai Oán và Vọng cổ là những điệu buồn vẫn được người nghe chuộng hơn những bài vui.
PHẦN 2 : Nhạc sư Vĩnh Bảo
Nhạc sư Vĩnh Bảo trình bày – có kèm theo minh hoạ – những điều cơ bản về nghệ thuật Đờn ca tài tử như cách lên dây đàn, những nét đặc thù của các điệu, các giọng, các hơi…
Đồng thời Nhạc sư cũng sẽ tuỳ hứng hoà đàn với các nghệ nhân, tạo nên một không khí Đờn ca tài tử đúng như trong truyền thống để khách mộ điệu có dịp thưởng thức những tinh hoa trong âm nhạc cổ truyền của dân tộc.
Biểu diễn minh họa : NSUT Ba Tu, NS Quang Dũng, NS Út Tỵ, NS Kim Thanh.
(Có thể thay đổi tuỳ theo sự sắp đặt của các nghệ nhân)
PHẦN 3 : Giao lưu giữa khán giả với nghệ sĩ và diễn giả.
(Theo GS-TS Trần Quang Hải)