Đờn ca là một nhu cầu giải trí cũng như để phục vụ cho những ngày lễ quan, hôn, tang, tế, đã có mặt lâu đời từ khi người Việt Nam định cư lập ấp tại
đất Nam Bộ (Trịnh Hoài Đức – Gia Định Thành Thông Chí).
Giữa cuối thế kỷ 19, nhạc cổ truyền được phổ biến ở đất Nam Bộ phần lớn là do các thầy đờn gốc miền Trung cùng một số sĩ tử ra kinh đô Huế du học mang về (Phan Hiển Đạo, Tôn Thọ Tường...). Nhạc cổ lúc ấy còn nghèo nàn về bài bản cũng như hơi điệu, chỉ vài bản Lý, vài bản hơi Bắc, Nam, Dựng ...
Từ khi ông Nguyễn Quang Đại tức Ba Đợi mà dân gian tương truyền ông là một nhạc quan của triều đình Huế vào đất Nam Bộ (có lẽ vào năm vua Hàm Nghi xuất bôn 1885) để làm nghề dạy nhạc, thâu nhận học trò, thì từ đó nhạc cổ trở thành một phong trào đờn ca có tính cách vui chơi giải trí rộng khắp ở các tỉnh miền đông và còn lan sang các tỉnh miền tây Nam Bộ. Phong trào nầy được gọi là phong trào đờn ca tài tử. Sở dĩ có tên gọi như vậy là vì phong cách chơi nhạc có vẻ phong lưu tài tử mà hơn nữa Nhạc Tài Tử chỉ bao gồm những bài bản bác học, loại nhạc tinh hoa nhứt trong nền âm nhạc cổ truyền Việt Nam.
Ông Nguyễn Quang Đại đem loại hình ca nhạc Huế mà từ lâu chỉ dành riêng cho những thành phần thượng lưu quí tộc như vua chúa, quan lại, đem ra phổ biến rộng khắp trong mọi từng lớp nhân dân. Ông đã dạy nhạc nhiều nơi và dạy nhiều học trò gồm đủ thành phần công nhân, nông dân, trí thức, nhứt là tại miệt Cần Giuộc, Cần Đước, dấu ấn của ông để lại rất rõ nét. Ông lấy vợ sanh con, dạy rất nhiều học trò thành danh như các ông Sáu Thoàn (cò), Chín Chiêu (kìm), cô Sáu Giỏi (kìm), cô Bảy Lung (tranh), ông Xã Năm (tiêu), Năm Tịnh (tranh, tỳ bà), Hai Bầu (cò), Năm Khiết (thân sanh cô Tư cầu Mồng Gà, một ca sĩ nhạc tài tử nổi danh lúc bấy giờ), Bảy Đờn, Mười Bầu, Bảy Vô (nhạc sĩ tham dự Vạn Quốc Bác Lãm Hội Paris, Pháp Quốc 1900), Tám Ra, Mười Lăng, Chín Kỳ, Năm Cần, Cả Cương, Tư Chợ… Trong khoảng thời gian rất ngắn, không hổ danh là một nhạc công của triều đình, ông đã đào tạo cho vùng Cần Đước, Cần Giuộc thuộc tỉnh Long An nhiều ban nhạc tài tử có căn cơ bài bản vững chắc và nhiều thầy đờn có ngón đờn tài ba đi làm thầy dạy nhạc khắp miền lục tỉnh. Nhờ thế mà Cần Đước nổi danh trong giới đờn ca tài tử với câu “Nhứt Bạc Liêu Nhì Cần Đước” (Bạc Liêu giỏi về ca, Cần Đước – Long An giỏi về đờn).
Ông đã làm 3 việc rất quan trọng để nâng cao nhạc Tài Tử là cải biên những bài bản đã có sẵn của ca nhạc Huế, sáng tác những bài bản có hơi điệu mới và hệ thống hơi điệu cho từng bài bản. Chính cuộc cách mạng nầy trong âm nhạc đã hấp dẫn quần chúng đua nhau theo học nhạc dân tộc rất nhiều. Ông đã dần dần hệ thống bài bản và hơi điệu, tạo ra phong cách chơi nhạc tài tử thích hợp với cuộc sống nhàn rỗi của nông thôn. Khi rảnh công việc đồng áng, cuộc chơi đờn ca tài tử có thể kéo dài thâu đêm suốt sáng. Do đó bài bản thường cấu trúc nhiều câu nhiều lớp, có lớp thủ, lớp vĩ, lớp hồi thủ. Mỗi lần đờn ca còn phải liên kết nhiều bài bản thì người chơi đờn cũng như khách mộ điệu mới cảm thấy thỏa thích.
Cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, tại Nam Bộ đã có 2 nhóm nhạc Tài Tử tranh đua nhau quyết liệt về sáng tác bài bản để thu hút môn đệ về mình. Đó là nhóm nhạc Tài Tử Miền Đông do ông Nguyễn Quang Đại tức Ba Đợi ở Cần Đước – Long An làm trưởng nhóm và nhóm nhạc Tài Tử Miền Tây do ông Kinh Lịch Trần Quan Quờn ở Vĩnh Long làm trưởng nhóm. Nhờ sự tranh đua nầy mà vô tình làm cho kho tàng nhạc Tài Tử thêm phong phú về hơi điệu và bài bản. (Danh từ Đông và Tây ở đây là dùng để chỉ Miền Đông Nam Bộ bao gồm 3 tỉnh Biên Hòa, Gia Định, Định Tường, Miền Tây Nam Bộ bao gồm 3 tỉnh Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên của Nam Kỳ Lục Tỉnh xưa).
Nhóm Nhạc Miền Tây được sự cộng tác của các ông Nguyễn Liêng Phong (thầy đờn kiêm nhà văn), Phạm Đăng Đàng (sĩ phu yêu nước gốc miền Trung bị giặc Pháp lưu đày, soạn bài ca), cùng các thầy đờn danh tiếng như cụ Thập, cụ Thủ, chủ trương duy trì nguyên tắc đã được các bài bản của ca nhạc Huế áp dụng để cấu tạo âm thanh, vẫn giữ đúng 3 nhịp Nội, Ngoại Hoán Pháp và Chánh Thất, thâu nạp một số bài bản có sẵn và đồng thời sáng tác mới nhưng vẫn giữ nguyên vẹn phương thức, âm tiết của nhạc miền Trung. Do đó các sáng tác của nhóm này mặc dầu có nhiều, thí dụ như những bản Hiệp Điệp Xuyên Hoa, Thanh Đình Điểm Thủy, Kim Oanh Trịch Liễu… nhưng giới chơi nhạc Tài Tử không hưởng ứng.
Trái lại, nhóm Nhạc Miền Đông được sự cộng tác của nhiều văn nhân lổi lạc cùng với số học trò tài ba của ông Nguyễn Quang Đại như: Sáu Thới, Bảy Nhỏ, Tám Hạnh, Cao Quỳnh Cư, Cao Quỳnh Diêu, Sáu Thoàn, Chín Chiêu, Năm Tịnh, Năm Khiết, Ba Đồng, Năm Quýnh, Năm Cần, Giáo Thinh, Cao Hoài Sang, đã cải biên các bài bản của ca nhạc Huế bằng cách giản dị hóa lối ấn nhịp để tạo ra nhạc điệu hòa hợp với ngôn ngữ của dân miền đất Nam Bộ. Bài bản chỉ có 2 loại nhịp: nhịp Nội và nhịp Ngoại.
Nhóm Nhạc Miền Đông vẫn tôn trọng nguyên tắc truyền thống là Nhạc Tài Tử được xây dựng trên nền tảng triết học Đông phương “Nhạc giả âm chi sở do sanh giã”, loại nhạc tâm tấu, được sáng tạo chữ đờn khi cảm hứng, nên không chủ trương sáng tác nhiều bài bản, chỉ sắp xếp chung một số bài bản tiêu biểu có cùng hơi điệu. Sự sắp xếp nầy đã hình thành 4 loại bài bản tượng trưng cho 4 hơi điệu Bắc, Nam, Lễ, Oán, chỉ gồm có 20 bài bản được cấu trúc tại Miền Đông mà giới nhạc tài tử gọi là 20 bản Tổ đã đại diện đầy đủ hơi điệu đờn ca tài tử.
Bấy lâu, giới ca nhạc tài tử ít chú ý tới việc phân biệt cung, điệu, giọng, hơi… nhưng từ khi hệ thống 20 bản Tổ xuất hiện thì điệu có cấu trúc chữ
đờn một cách đặc thù xuyên suốt bản nhạc, hơi có cấu trúc do nhấn nhá phím đờn mà tạo ra. Nhạc ta không dùng định nghĩa của thang âm điệu thức nhạc tây phương để gọi tên hơi điệu vì phong cách chơi nhạc đông tây hoàn toàn khác nhau.
Từ đầu thế kỷ 20, giới chơi Nhạc Tài Tử muốn tranh đua, thách thức nhau đều mang 20 bài bản thuộc 4 hơi điệu Bắc, Nam, Lễ, Oán ra làm căn bản để so tài.
Các bài bản Tổ gồm có 20 bài chia ra thành 4 nhóm:
Sáu bản Bắc, đại diện cho điệu Bắc là: Lưu Thủy Trường, Phú Lục Chấn, Bình Bán Chấn, Cổ Bản Vắn, Xuân Tình Chấn và Tây Thi Vắn.
Ba bản Nam, đại diện cho điệu Nam là: Nam Xuân, Nam Ai, Đảo Ngũ Cung (Nam Đảo).
Bảy bản Nhạc Lễ cũng còn gọi là 7 bài Cò, đại diện cho điệu Lễ: Xàng Xê, Ngũ Đối Thượng, Ngũ Đối Hạ, Long Đăng, Long Ngâm, Vạn Giá và Tiểu Khúc.
Bốn bản Oán, đại diện cho điệu Oán là: Tứ Đại Oán, Phụng Hoàng Cầu tức Phụng Hoàng, Cửu Khúc Giang Nam và Phụng Cầu Hoàng Duyên tức Phụng Cầu.
Giới chơi Nhạc Tài Tử Miền Đông đã truyền khẩu cho nhau 2 câu đối “Thức thời tối thiểu lão thông nhị thập quyền Tổ Bản, Quán thế thậm đa lịch luyện thất thập nhị huyền công” để làm khuôn vàng thước ngọc cho sự rèn luyện kỹ thuật, học thuộc căn cơ 20 bài bản Tổ, và rèn luyện nghệ thuật so dây nắn phím, nhấn nhá làm sao để đạt được trình độ bát tuyệt (Thanh, Kỳ, U, Nhã, Bi, Tráng, Du, Trường).
I. ĐIỆU BẮC:
Điệu nhạc vui tươi, có mặt từ đời Lý, Trần, Lê, xuôi dòng Nam tiến đi vào
Đàng Trong và phát huy rực rỡ tại kinh đô của triều Nguyễn. Ca nhạc Huế
đã cung cấp rất nhiều bài bản Bắc cho Nhạc Tài Tử Nam Bộ. Có người cho chữ Cung Bắc hoặc Điệu Bắc là cung điệu có ảnh hưởng nhạc Trung Hoa, một nước nằm ở phía bắc nước ta, có người lại cho là điệu nhạc của Đàng Ngoài do các vua Lý, Trần, Lê sử dụng từ lâu, có một số người cho rằng, sở dĩ gọi Cung Bắc, Cung Nam là gọi theo dịch lý âm dương của triết học Đông phương, khi mới sanh ra ở hướng bắc thuộc thời kỳ thiếu dương, vạn vật bừng sức sống nên nhạc điệu Bắc nghe vui tươi, trái lại khi vòng “sanh thành hoại diệt.” hướng về Nam thì vạn vật ủ rủ nên điệu Nam nghe buồn thảm.
Không biết có phải hiểu rõ về dịch lý âm dương hay chỉ là vô tình mà buổi đờn
ca tài tử bao giờ cũng mở đầu bằng điệu Bắc.
Cấu trúc âm thanh của Điệu này dùng chữ theo hệ thống ngũ cung chánh là Hò, Xự, Xang, Xê, Cống, không nhấn không rung, lấy âm Xàng Liu làm âm chủ. Sáu bản Bắc tiêu biểu, mỗi bản lấy một chữ trong hệ thống ngũ cung chánh làm chữ khởi đầu như: Lưu Thủy Trường (Hò), Phú Lục Chấn (Xự), Bình Bán Chấn (Xang), Cổ Bản Vắn (Xê), Xuân Tình Chấn (Cống), Tây Thi Vắn (Liu đồng âm với Hò nhưng ở cung cao). Bốn bản đầu là 4 bản được cải biên và nới nhịp theo phong cách nhạc Tài Tử Nam Bộ của 4 bản ca nhạc Huế. Bản Xuân Tình là một sáng tác mới, chỉ lấy cái tên Xuân Tình trong bản Xuân Tình Điểu Ngữ ghi trong nhạc mục đời vua Tự Đức. Bản Tây Thi do nhóm nhạc sĩ đi dự Vạn Quốc Bác Lãm Hội tại Paris (Pháp Quốc) năm 1900, sáng tác để mỉa mai chuyện cổ nhạc Việt Nam đi Tây thi trước hội đồng giám khảo toàn là người Pháp.
Sáu bản Bắc lại được chia ra làm 6 bản Bắc Thủ và 6 bản Bắc Vĩ. Mỗi bản có 3 cách nhịp: cấp điệu (nhịp tẩu), trung điệu (nhịp vắn) và hoãn điệu (nhịp chấn, nhịp trường). Như vậy điệu Bắc có 18 bản Thủ và 18 bản Vĩ gọi là Thập Bát Thủ và Thập Bát Vĩ. Thông thường trong buổi đờn ca thì 6 bản Bắc được chơi từng cặp theo thứ tự Lưu Thủy Trường - Phú Lục Chấn, Bình
Bán Chấn - Xuân Tình Chấn, Tây Thi Vắn - Cổ Bản Vắn. Thủy là nước nên người xưa có quan niệm nước là điều kiện đầu tiên để mọi sanh vật sống và phú trong Phú Lục lại lấy nghĩa là giàu có nên do đó 2 bản Lưu Thủy Trường và Phú Lục Chấn thường được mở đầu nhằm mục đích chúc tụng nhau làm ăn giàu có như nước chảy xuôi dòng. Đây cũng là một ý nghĩa đẹp đẽ của người đi trước.
Xin lỗi cailuong04! Khal xin phép post tiếp các điệu còn lại II. ĐIỆU NAM:
Theo Việt Nam Văn Hóa Sử Cương của Đào Duy Anh thì nguồn gốc 2 bản Nam Xuân và Nam Ai như sau: “ Ở miền Nam, từ khi chúa Nguyễn khai thác bờ cõi vào đất Chiêm Thành, âm nhạc ở miền Bắc truyền vào đã chịu ngay ảnh hưởng của âm nhạc Chiêm mà thành những nhạc khúc cung Nam, người ta hay đem đối với các nhạc khúc cung Bắc. Những cung Nam như Nam Ai, Nam Bình, Nam Xuân có vẻ trầm bi, oán vọng hợp với tâm thuật của một dân tộc điêu tàn là dân tộc Chiêm Thành cùng với cảnh non nước dịu dàng ở xung quanh kinh đô Huế. Những cung Bắc (khách) như Lưu Thủy, Phú Lục, Cổ Bản, 10 bản Tàu, thì có vẻ linh hoạt, vui vẻ, mạnh mẽ hơn, thật thích hợp với tính chất tiến thủ, hăng hái của người Bắc Việt, cùng với cánh điền rộng rãi, sông ngòi mãnh liệt ở miền Trung Châu.
“Trong khi âm nhạc ở Đường Ngoài đương suy thì ở Đường Trong các chúa Nguyễn cùng các bực vương công ham chuộng, và nhờ ảnh hưởng của Chiêm nên trở thành phong phú và thạnh vượng lên.”
Ông Thái Văn Kiểm trong Cố Đô Huế dẫn lời cụ Ưng Bình Thúc Giạ: “ïCác điệu ca Huế thì có lẽ như mới sản xuất từ đời chúa Minh, Tộ Quốc Công Nguyễn Phước Châu (1691-1725). Lúc bấy giờ thủ phủ miền Trung đã đặt tại làng Phú Xuân, huyện Hương Trà, vào chỗ đông nam kinh thành Huế hiện nay. Chính trong khung cảnh mỹ lệ nầy mà các điệu ca Huế đã lần hồi xuất hiện. Chính chúa Minh là người sáng tác ra bài Ai Giang Nam tức tiền thân bản Nam Ai của ca nhạc Huế mà cụ Ba Đợi đã lấy để cải biên và soạn lại thành bản Nam Ai ca nhạc Tài Tử.
Điệu Nam gồm có 3 bản Nam Xuân, Nam Ai và Nam Đảo (Đảo Ngũ Cung)cấu trúc bằng 5 âm chánh Hò, Xự, Xang, Xê, Cống, nhưng nhấn và rung ở những chữ Xừ Xang Xê Cống. Những láy đờn thường gói gọn trong một ngũ cung. Ba bản nhạc này có 3 âm sắc khác nhau không ảnh hưởng của hơi điệu nào trong nhạc Tài Tử.
1. Nam Xuân:
Ở ca Huế, Nam Xuân chính là biến thể của bản Nam Bình. Ở nhạc Tài Tử, ông Ba Đợi cải biên, thêm câu, sửa nhịp, đã trở thành bản mới, được chọn làm tiêu biểu cho hơi Xuân. Tính chất ung dung, nhẹ nhàng, man mác vì chỉ nhấn và rung nhẹ ở chữ Xừ, chữ Xang, chữ Xê. Âm chủ của hơi Xuân là Xàng Xang. Nếu ta dùng khái niệm cứng (Bắc) mềm (Ai) thì hơi Xuân còn giữ một phần độ cứng của điệu Bắc.
2. Nam Ai:
Ông Ba Đợi cải biên từ bản Nam Ai của ca nhạc Huế. Nhấn và rung mạnh ở chữ Xự, chữ Xang và qua Lớp Mái nhấn và rung mạnh chữ Cộng nên điệu nhạc nghe buồn thảm, tỉ tê, bi lụy và nức nở vì có những nhịp đảo phách trong lòng câu.
3. Đảo Ngũ Cung (có nơi gọi Nam Đảo):
Bản được ông Ba Đợi viết mới. Cấu tạo bởi 2 hơi Xuân và Bắc cùng hơi Dựng. Nam Đảo hình thành trên thang âm Hò, Xự, Xang, Xê, Cống và cấu trúc câu đều có sự đảo lộn trên 5 cung, lại xen lẫn với điệp khúc Xề Ú Liu Phan, nghe như có sự đảo cung từ hơi dây này sang hơi dây kia. Từ bản Nam Ai đờn chuyển sang bản Đảo Ngũ Cung, dòng nhạc biến đổi tính chất khẩn trương, quyết liệt.
Xưa đờn ca 3 bản Nam thì phải đờn ca liên quờn Nam Xuân, Nam Ai và Nam Đảo, gồm 239 câu. Song, 3 bản nầy vì có nhiều lớp trùng lập nên hiện tại giới chơi nhạc Tài Tử đờn tắt liên lớp hoặc đờn từng bản và bỏ bớt những lớp trùng. Lớp Trống Xuân được các ông Sáu Thoàn, Chín Chiêu (Cần Đước) chuyển từ hơi Xuân qua hơi Ai tiếp sau bản Nam Đảo và chuyển cung từ Hò Tư sang Hò Nhứt và gọi là 2 lớp Song Cước.
..................
Ông Ba Đợi không những dạy nhạc Tài Tử mà còn bổ sung và chấn chỉnh bộ môn Nhạc Lễ đã có sẵn tại Cần Đước do các ông thầy đờn tên Sâm, Hồ, Ngô, Đạo truyền dạy. Bốn ông nầy không biết ở thời đại nào tại vùng Cần Đước nhưng tương truyền tài năng của các ông qua câu “ Sâm Hồ Ngô Đạo nhứt dĩ quán chi” là rất giỏi nghề. Ông Ba Đợi đã đem 7 bài Nhạc Lễ còn gọi là 7 bài Cò hay 7 bài Dây Nhạc truyền dạy cho các môn đệ nhạc Tài Tử. Bảy bài này cùng hệ thống điệu Bắc nhưng dùng chữ Xề Ú làm âm chủ, có cấu trúc chữ đờn đối nghịch với hơi điệu Bắc và nhất là đờn cò, kìm, ghi ta, tỳ bà, tam phải lên dây nhạc (nhạc Lễ) thì ta mới thấy hơi Hạ khác với hơi Bắc nhờ dây buông đúng vào âm chủ.
Bảy bài Nhạc Lễ dùng trong các buổi tế lễ, tính chất trang nghiêm, được nhạc Tài Tử hóa với từng bản một ý nghĩa:
1. Xàng Xê:
Theo người xưa, Cung Xàng áng theo thuyết âm dương ngũ hành là Thủy (nước) và Xê là Hỏa (lửa), do tương khắc tương sanh mà 2 cung Xàng và Xê đã hài hòa cấu tạo âm thanh tạo nét sinh động phù hợp lẽ sống cuộc đời.
2. Ngũ Đối Thượng:
Năm điều ngũ thường Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín mà cổ nhân luôn quan tâm khi đề cập người trên đối với kẻ dưới.
3. Ngũ Đối Hạ:
Năm điều Ngũ Thường Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín mà kẻ dưới đối với người trên.
4. Long Đăng:
Đèn rồng (rồng tượng trưng vua).
5. Long Ngâm:
Khúc ngâm về rồng tức vua.
Năm Hưng Long thứ 18 (1310) đời vua Anh Tôn, đưa tử cung Nhân Tôn Thượng Hoàng từ điện Diên Hiền đến táng ở lăng Quy Đức. Lúc cử hành lễ phát dẫn, dân chúng đi xem đầy đường không làm sao rước được xe tử cung, quan Chỉ Hậu Chánh Chưởng là Trịnh Trọng Tử phải theo lối cổ vãn đặt ra khúc Long Ngâm cho quân sĩ đi hai bên đường vừa đi vừa hát. Dân chúng xô nhau đến nghe hát, bấy giờ mới rước được xe tử cung đi). Bản Long Ngâm của Trịnh Trọng Tử có lẽ đã thất truyền. Bản Long Ngâm nhạc Lễ được sáng tác tại Nam Bộ.
6. Vạn Giá:
Mười ngàn xe của vua.
7. Tiểu Khúc:
Một khúc nhạc ngắn nhứt, tóm tắt hơi điệu của 6 bản nhạc đầu nên nó được mang tên Tiểu Khúc.
Gồm có 4 bản: Tứ Đại Oán, Phụng Hoàng Cầu, Cửu Khúc Giang Nam và Phụng Cầu Hoàng Duyên.
Điệu Oán, là một điệu đặc thù được sáng tạo tại đất Nam Bộ. Ông Ba Đợi chuyển hơi, chuyển cung và phát triển bản Tứ Đại Cảnh của ca nhạc Huế từ hơi Bắc dựng thành hơi Oán. Giai đoạn đầu, khoảng cuối thế kỷ 19, bài bản Tài Tử có thêm một bản có hơi Oán và đó là bản Tứ Đại Vắn cũng còn gọi là bản Tứ Đại Cảnh Nam Phần nhịp tư. Giai đoạn tiếp theo, những ngày đầu thế kỷ 20, bản Tứ Đại Vắn được phát triển từ nhịp tư sang nhịp 8, được phân câu, phân lớp, nhịp nội, nhịp ngoại, gỏ mô, đờn chầu thì hơi điệu Oán mới xứng danh là một điệu riêng biệt với hơi Ai của điệu Nam. Điệu Oán có cấu trúc các láy đờn thường đi từ 2 ngũ cung và một điểm đặc thù của điệu này là nhiều câu trong các lớp thường xuyên có mặt chữ Oan (chữ Phan nhấn và rung mạnh) nên nghe buồn nhưng kiểu buồn bi hùng.
Bản Tứ Đại Cảnh tiền thân của bản Tứ Đại Oán, tương truyền là của vua Tự Đức sáng tác để ca ngợi 4 cảnh lớn của trời đất: Xuân, Hạ, Thu, Đông, nhưng cũng có người cho là vua Tự Đức có ngụ ý tôn vinh bốn cảnh đời thạnh trị của vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức (chữ Đại là Đời).
Tên Tứ Đại Oán cũng có nhiều thuyết:
1. Để đối lại sự tôn vinh 4 cảnh đời vua triều Nguyễn, giới nhạc Tài Tử Nam Bộ đã mĩa mai chế độ phong kiến triều Nguyễn vì bất lực trước nạn ngoại xâm, phế lập tùy tiện liên tiếp 4 đời vua Dục Đức, Hiệp Hòa, Kiến Phúc, Hàm Nghi mà mảnh đất thân yêu của tổ quốc cũng bị rơi vào tay giặc. Đúng là 4 cái oán lớn hoặc 4 đời oán hận của 4 đời vua sau vua Tự Đức.
2. Sở dĩ bản Tứ Đại được mang tên Tứ Đại Oán là vì cấu trúc âm thanh có ưu thế của số lượng chữ Oan (chữ Cộng nhấn mạnh, ở hơi Nam gọi là Phan, ở hơi Oán gọi là Oan).
3. Một số nhạc sĩ ảnh hưởng thuyết Phật Giáo cho con người luôn bị đau khổ bởi Tứ Diệu Đế là Sanh, Lão, Bịnh,Tử.
Sự đúng hay sai của các thuyết trên cần phải được nghiên cứu tiếp. Đối với các nhạc sĩ Tài Tử, chữ Oán trong âm nhạc là để chỉ một điệu nhạc buồn sâu xa nhưng bi hùng chớ không bi lụy như hơi Ai trong điệu Nam. Hơi điệu Oán khi vừa xuất hiện, đã tạo được một thời vàng son không thua kém gì bản Vọng Cổ ngày nay. Điệu Oán là một âm điệu chủ đạo của nền ca nhạc Tài Tử Nam Bộ qua nhiều thập niên liên tiếp. Các tập bài ca Tứ, Lục, Bát, Thập Tài Tử xuất bản từ năm 1909 đến 1915 tại Sài Gòn đã minh chứng điều này. Một điểm quan trọng khác nữa là vào năm 1915 bản Tứ Đại Oán Bùi Kiệm Nguyệt Nga là bản ca Tài Tử đầu tiên được ông Tống Hữu Định tục danh ông Phó Mười Hai ở Vĩnh Long đưa lên bộ ván để ca ra bộ, mở màn cho sân khấu cải lương ra đời.
Sự cấu trúc của bản Tứ Đại Oán rất chặt chẽ về mặt văn học nghệ thuật. Theo quyễn Nghệ Thuật Sân Khấu Việt Nam của học giả Trần Văn Khải, một nhà sưu tầm nghiên cứu rất uy tín, thì người sáng tác bản Tứ Đại có thể là một nhạc sư kiêm thi sĩ. Bản Tứ Đại là một bài thơ Bát Cú Đường Luật. Các Lớp 1, 2, Xang Dài 1, Xang Dài 2, Xang Vắn 1, Xang Vắn 2, Hồi Thủ, Xang Dứt, tương ứng với các câu Phá, Thừa,Cặp Trạng, Cặp Luận, Câu Chuyển, Câu Kết của bài thơ Đường.
Cửu Khúc Giang Nam được lấy điển tích nàng Tô Huệ thương nhớ chồng đau đớn chín khúc ruột nơi đất Giang Nam mà đặt tên.
Bản Phụng Hoàng Cầu tức Phụng Hoàng và bản Phụng Cầu Hoàng Duyên tức Phụng Cầu được gọi tên như vậy là mượn ở điển tích Tư Mã Tương Như, lúc hàn vi, khảy khúc Phượng Cầu Hoàng mà được vợ là Trác Văn Quân.
Ngoài 4 điệu: Bắc, Nam, Hạ, Oán và 3 hơi: Xuân, Ai, Đảo ra thì nhạc Tài Tử chưa tìm được ra hơi điệu nào mới mẽ mà còn giữ được bản sắc thuần túy dân tộc. Tuy nhiên đợi đến khi nhóm nhạc Miền Đông Nam Bộ mà trưởng nhóm là ông Nguyễn Quang Đại tức Ba Đợi, lần đầu tiên đem ra giới thiệu với khách mộ điệu nhân dịp vua Thành Thái vào Sài Gòn (1898 - 1899) thì nhạc Tài Tử lại có thêm hơi Ngự. Hơi Bắc Ngự có các bản Đường Thái Tôn, Vọng Phu, Chiêu Quân, Ái Tử Kê, Bát Man Tấn Cống, hơi Ai Ngự gồm 2 bản Tương Tư và Duyên Kỳ Ngộ, hơi Ai Oán Ngự, bản Quả Phụ Hàm Oan.
NGỰ, tác giả muốn dành riêng những bài bản âm nhạc nầy để vua nghe. Cụ Ba Đợi dùng âm nhạc thay ngôn ngữ để thể hiện lòng mong đợi, sự trung thành, yêu nước mến vua của nhân dân miền Nam mà nội dung chứa đựng trong từng bản:
1. Đường Thái Tôn:
Ám chỉ vua Thành Thái là vị vua anh minh như vua Đường Thái Tôn ở Trung Quốc.
2. Vọng Phu:
Nhân dân Nam Bộ tưởng nhớ vua như vợ nhớ chồng.
3. Chiêu Quân:
Lòng người miền Nam trung quân, tiết liệt như nàng Chiêu Quân hy sinh cho đất nước, đem thân cống Hồ, khi chết thi thể cũng quay về tổ quốc.
4. Ái Tử Kê:
Đất Nam Bộ bị giặc Pháp chiếm. Nhân dân Nam Bộ như đàn gà con mất mẹ. Hãy thương bầy gà con.
5. Bát Man Tấn Cống:
Nhớ thuở huy hoàng, Việt Nam là một cường quốc, các nước nhỏ phải hàng năm triều cống (Có lẽ tên Bát Man là do đời Nhà Nguyễn, năm Minh Mạng thứ 7 (1826), bà Hoàng Thái Hậu lên thọ lục tuần đại khánh, quan Hữu Tư dựng thái lâu ở cửa Tiên Thọ, trong bày các thứ âm nhạc. Vua cùng các quan rước Hoàng Thái Hậu lên xem nhạc công múa khúc Trinh Tường rồi hòa bản nhạc Bát Man).
6. Tương Tư:
Nhân dân Nam Bộ lúc nào cũng tưởng nhớ đến vua mình.
7. Duyên Kỳ Ngộ:
Đất Nam Bộ đã giao cho Pháp, bất ngờ lại được gặp vua mình. Đây quả là duyên kỳ ngộ.
8. Quả Phụ Hàm Oan:
Vua tưởng rằng tất cả người dân Nam Bộ đều ham mê bơ sữa, hùa theo tân trào, nhưng cũng còn có nhiều người muốn đuổi giặc Pháp xâm lăng. Nhân dân Nam Bộ giống như người quả phụ bị hàm oan.
Tám bản Ngự là những bản nhạc nói lên lòng mình với nhà vua nên âm hưởng ít nhiều phảng phất chất điệu nhạc cung đình. Đờn Ngự, đờn kìm phải lên dây Bắc Hò Nhứt (Xàng Liu), nếu đờn Hò Tư gọi là dây Quả Phụ, Hò Nhì gọi là dây Nhị Ngũ, nhấn nhá ra hơi Bắc Ngự, hơi Ai Ngự hoặc hơi Ai Oán Ngự thì hơi Ngự mới rõ nét và không lẫn lộn với hơi Ai, hơi Oán.
Một hệ thống phân loại khác được cụ Huỳnh Thúc Kháng viết trên báo Tiếng Dân xuất bản tại Huế được cụ GiáoThinh phân tích trên nhựt báo Công Nhân năm 1957, đã phân chia bài bản cổ nhạc Việt Nam thành 10 loại: Nhứt Lý, Nhì Ngâm, Tam Nam, Tứ Oán, Ngũ Điếm, Lục Xuất, Thất Chánh, Bát Ngự, Cửu Nhĩ và Thập Thủ Liên Huờn (Quờn). Hệ thống nầy không phù hợp với bài bản Nhạc Tài Tử, kê khai kể cả thể loại dân ca mà lại không kê khai hết tổng số bài bản nhạc Tài Tử cũng như không nói lên được hệ thống các hơi điệu. Có những bài bản của hơi điệu loại này đã trùng lập với bài bản hơi điệu loại kia, thí dụ như loại Ngũ Điếm, Lục Xuất, Cửu Nhĩ, Thập Thủ Liên Huờn đều thuộc hơi điệu Bắc, và loại Lục Xuất có những bài bản trùng lập với loại Ngũ Điếm và Thập Thủ Liên Huờn.
Bài bản Nhạc Tài Tử Nam Bộ có trên dưới gần 100 bản, thí dụ như nhóm nhạc miền Đông còn nhiều bản nhạc rất hay như bộ Ngũ Châu của ông Ba Đợi (điệu Bắc), Trường Tương Tư cải biên từ bản Nam Bình của ca nhạc Huế (điệu Ai Oán), Văn Thiên Tường tương truyền do ông Trần Quang Thọ ở Mỹ Tho sáng tác nhân cái chết của nhà yêu nước Thủ Khoa Huân (điệu Ai Oán), bản Võ Tắc Biệt, một sáng tác đối lại với bản Văn Thiên Tường (điệu Ai Oán), 4 bản oán phụ hay ngoại oán như Nguơn Tiêu Hội Oán, Võ Văn Hội Oán, Bình Sa Lạc Nhạn và Thanh Dạ Đề Quyên (điệu Oán), 2 bản Hội Nguơn Tiêu (điệu Bắc) và Bát Bản Chấn (điệu Bắc có biến thể), bộ Tam Bắc Nhị Oán của Mõ Cày – Bến Tre, bản Xuân Nữ (điệu Ai Oán) và bộ Tứ Bửu của nhóm Tài Tử Bạc Liêu (điệu Bắc) rất được thông dụng nhưng hơi điệu không nằm ngoài 20 bài bản Tổ.
Ngày 24-2-1979 nhạc sĩ Chín Tâm đã thỏa mản phần nào nhu cầu về bài bản, bằng cách đưa ra bản điều chỉnh sự phân loại 10 loại bài bản cổ nhạc miền Nam. Nguyên văn bản phân loại đó như sau:
“ Mười loại bài bản của cổ nhạc miền Nam đã được nhạc sư Nguyễn Văn Thinh phân ra mỗi loại có những bản gì trên nhựt báo Công Nhân năm 1957. Nay do đề nghị điều chỉnh và được nhạc sư Nguyễn Văn Thinh sắp xếp lại những bản của hai loại thứ sáu và thứ chín như sau:
Nhứt Lý: Lý Con Sáo, Lý Vọng Phu (nam), Lý Giao Duyên, Lý Ngựa Ô Bắc, Lý Ngựa Ô Nam, Lý Phước Kiến, Lý Chuồn Chuồn, Lý Thập Tình.
Nhì Ngâm: Ngâm thơ Lục Bát, Tứ Tuyệt, Bát Cú, v, v …theo giọng Xuân hoặc Ai.
Tam Nam: Nam Xuân, Nam Ai, Nam Đảo (Đảo Ngũ Cung)
Tứ Oán: Tứ Đại Oán, Phụng Hoàng Cầu, Cửu Khúc Giang Nam, Phụng Cầu Hoàng Duyên Bình Sa Lạc Nhạn, Thanh Dạ Đề Quyên, Nguơn Tiêu Hội Oán, Võ Văn Hội Oán.
Ngũ Điếm: Lưu Thủy, Phú Lục, Bình Bán, Cổ Bản, Xuân Tình, Tây Thi, mỗi điệu có 6 bản (3 bản thủ và 3 bản vĩ) gồm tất cả 6 điệu là 36 bản.
Lục Xuất: Văn Thiên Tường, Trường Tương Tư, Chinh Phụ Nam (Chinh Phụ Ly Tình), Tứ Đại Vắn (Tứ Đại Cảnh Nam Phần), Hội Nguơn Tiêu, Bát Bản Chấn.
Thất Chánh: Xàng Xê, Ngũ Đối Thượng, Ngũ Đối Hạ,Long Đăng, Long Ngâm, Vạn Giá, Tiểu Khúc.
Bát Ngự: Đường Thái Tôn, Vọng Phu, Chiêu Quân, Ái Tử Kê, Bát Man Tấn Cống, Tương Tư, Duyên Kỳ Ngộ, Quả Phụ Hàm Oan.
Thập Thủ Liên Huờn (Quờn): Phẩm Tuyết, Nguyên Tiêu, Hồ Quãng, Liên Huờn, Bình Bản, Tây Mai, Kim Tiền, Xuân Phong, Long Hổ, Tẩu Mã.
Lý do điều chỉnh:
Trong bản sắp xếp năm 1957, loại thứ 6 là “Lục Xuất Kỳ Sơn” gồm có Cổ Bản Vắn (loại Ngũ Điếm), Bình Bản, Kim Tiền, Xuân Phong, Long Hổ, Tẩu Mã (loại Thập Thủ Liên Huờn) là loại ghép 6 bản ở 2 loại thứ 5 và thứ 10, nên đem Văn Thiên Tường, Trường Tương Tư, Chinh Phụ Nam, Tứ Đại Vắn, Hội Nguơn Tiêu và Bát Bản Chấn thay vào vì những bản nầy là những bản nhạc hay mà chưa từng được sắp xếp vào loại nào từ trước tới nay.
Loại thứ 9 là Cửu Nhỉ, đem 2 bộ Tứ Bửu và Ngũ Châu thay vào, đem 2 bản Hội Nguơn Tiêu và Bát Bản Chấn lên loại Lục Xuất với ý nghĩa như đoạn 1 trên.
“Ngoài ra thêm vào loại Tứ Oán 2 bản oán hiện đang được phổ biến trong giới nhạc tài tử là Ngươn Tiêu Hội Oán và Võ Văn Hội Oán.”
(Ngày 24-2-1979, ký tên Chín Tâm).
“Ý kiến của nhạc sư Nguyễn Văn Thinh: Lý do điều chỉnh được nghệ sĩ Chín Tâm trình bày rất chánh đáng vì sau khi được điều chỉnh vốn Nhạc Dân Tộc Miền Nam sẽ đầy đủ những bản thông dụng của Tài Tử từ trước tới nay.”
(Ngày 25-2-1979, ký tên Nguyễn Văn Thinh).
“Ý kiến của nhạc sư Phạm Văn Nghi: Số vốn bài bản hiện có của Miền Nam đều được sắp xếp theo sự điều chỉnh. Điều nầy rất có lợi cho nền âm nhạc cổ truyền. Tôi xin tán thành công việc này.”
(Ngày 1-3-1979, ký tên Phạm Văn Nghi)
Tóm lại, chỉ có cách phân loại nhạc Tài Tử Nam bộ của cụ Ba Đợi theo hệ thống hơi điệu là hoàn chỉnh hơn, đã được hầu hết giới chơi nhạc tài tử chấp nhận. Bốn điệu Bắc, Nam, Hạ, Oán và bốn hơi Xuân, Ai, Đảo, Ngự vẫn giữ được sự chánh thống của hai dòng âm nhạc bình dân và bác họcViệt Nam. Cho tới nay, mặc dầu các nhạc sĩ đã không ngừng có những sáng tác mới, nhưng cũng chỉ làm những sự lắp ghép của nhiều bài bản cũ (Nhóm tài tử Bạc Liêu như các bản Liêu Giang, Ngũ Quan, Tứ Bửu Liêu Thành, Dạ Cổ Hoài Lang…) và sau ngày miền Nam Việt Nam được giải phóng, các nhạc sĩ Hai Thinh, Năm Vinh, Mười Phú đã tận dụng sự chuyển cung chuyển điệu để sáng tác các bản Ngũ Châu Minh Phổ, Ngũ Cung Luân Hoán, Nam Âm Ngũ Khúc, Hận Khúc Nam Quan, Ngũ Khúc Long Phi nhưng cũng không tạo ra được một hơi điệu nào mới mẻ hơn các hơi điệu của 20 bài bản Tổ và 8 bản Ngự. Các hơi ảnh hưởng nhạc Quảng Đông, Triều Châu, hơi lai căn theo kiểu nhạc tây phương không thuộc hệ thống bài bản Đờn CaTài Tử.