Những thập niên 60 và 70 (thế kỷ XX) có lẽ là thời hoàng kim của cải lương. Lúc bấy giờ cải lương là món ăn tinh thần được người dân yêu chuộng nhất, vượt trội hơn cả ca nhạc và thoại kịch. Vé chợ đen luôn có mặt ở tại cửa rạp với giá có khi gấp đôi mà người xem vẫn chấp nhận. Hiện tượng “mua dàn” thường xảy ra, vì người “mua dàn” cầm chắc tiền lời trong tay. Câu hỏi đặt ra là: Tại sao cải lương thời ấy lại được yêu chuộng như vậy?
Các thế hệ nghệ sĩ cải lương.
* Thứ nhất là, đào kép có thực tài, diễn xuất nhập vai, ca hay, múa giỏi, khá gần gũi với quần chúng, được quần chúng ái mộ và đã phong cho họ những mỹ danh xứng đáng với tài năng của họ.
Đó là “Đệ nhất danh ca miền Nam” cho Út Trà Ôn; “Sầu nữ” cho Út Bạch Lan; “Cải lương chi bảo” cho Bạch Tuyết; “Thanh sắc vẹn toàn” cho Thanh Nga; “Tiếng ca huyền diệu” cho Minh Cảnh…
* Thứ hai là, nhờ nhiều soạn giả tài hoa, mang nhiều tâm huyết, đã cho ra nhiều kịch bản (vở tuồng) xuất sắc, nội dung khai phóng, gây ấn tượng mạnh cho người xem.
Đó là Hà Triều Hoa Phượng với Tấm lòng của biển, Nửa đời hương phấn, Tuyệt tình ca (viết chung với Ngọc Điệp)…. và nhất là Con gái chị Hằng. Vở này đã diễn suốt 21 đêm liên tục tại rạp Nguyễn Văn Hảo (Rạp Công Nhân ở TP. Hồ Chí Minh ngày nay). Đó là Thu An với Nắng chiều trên sông Dịch, Hai chiều ly biệt, Lá của rừng xanh. Đó là Qui Sắc vớiNgười vợ không bao giờ cưới, Khi rừng mới sang thu… Đó là Nguyên Thảo với Tâm sự loài chim biển…
Những nhân vật của những vở tuồng ấy đã “bình dân hóa” trong quảng đại quần chúng: Người ta đã gán tên những nhân vật trong vở tuồng cho những ai ngoài đời có những hoàn cảnh tương tự, như “Phà Ca” (trongNgười vợ không bao giờ cưới), “Áo Vũ Cơ Hàn” (trong Tâm sự loài chim biển), “Ông Cò quận chín” (trong Tuyệt tình ca)…
Tuồng tích đã hay mà “văn chương” trong các vở tuồng cũng được các soạn giả trau chuốt kỹ càng; lại được đưa vào nhạc càng bóng bẩy, dịu êm, làm người xem (nghe) mê mệt:
“Lòng hẹn lòng, khi chia tay, như xé nát tâm hồn ai.
Trời lạnh lùng, mây cô đơn, buồn giăng khắp miền quan tái…”. (Mắt em là bể oan cừu)
Hay: “...Thì chị cũng sẽ về với em,
Để mừng ngày em xuất giá.
Cho vui lòng ba với má,
Chị cũng nở mặt nở mày với lối xóm bà con...”. (Nửa đời hương phấn)
Lại có những lời văn đẹp như một bài thơ:
“Mới đầu hôm mà tóc ta bạc gần nửa mái,
Mới đầu hôm mà rượu cạn mấy mười ly.
Mới đầu hôm mà sự thế đổi thay...”. (Thuyền ra cửa biển)
Hơn thế nữa, có những câu xứng đáng là danh ngôn:
“Thà ngu như con thiêu thân mà chết ngoài ánh sáng,
Còn hơn khôn như con chuột mà chết trong ống cống”. (Tấm lòng của biển)
Chúng tôi nhớ, sau khi vai Tấn (Hữu Phước đóng), nói câu nầy thì cả rạp vỗ tay rần rần. Một ông ngồi kế bên buộc miệng: “Coi cải lương mà nghe “văn chương” không cũng đủ đồng tiền!”.
Những bài ca như vậy, đến nay đã hơn bốn mươi năm mà vẫn còn có người thuộc lòng và thường hát.
Xã hội càng phát triển thì tầm thưởng thức nghệ thuật của khán giả cũng có sự đòi hỏi cao hơn, nếu các tác giả thời nay không chịu nắm bắt điều nầy thì khó thành công; ngược lại, vô hình trung coi thường khán giả và tất nhiên sẽ bị khán giả quay lưng!
Sau năm 1975, nhất là các thập niên gần đây cải lương bị mai một dần, biểu hiện dễ thấy nhất là cảnh khán giả chen nhau mua vé ngày càng xa lạ. Tại sao vậy? Có người đổ cho khách quan với lý do chỉ vì băng đĩa quá tiện lợi và rẻ tiền nên người ta không đến rạp nữa.
Nói như vậy thì có phần thiếu thuyết phục và có ý bênh vực cho môn nghệ thuật trên đường suy tàn. Hỏi lại, dù không đến rạp, ở nhà họ vẫn coi cải lương trên tivi? Câu trả lời rất sượng sùng là... rất ít người coi! (mà người coi là những lứa tuổi già nua còn sót lại).
Tại sao thế? Như đã phân tích ở trên, cải lương lúc trước được ưa chuông là nhờ ba yếu tố: Diễn viên thiện nghệ, soạn giả tài ba và kịch bản xuất sắc.
Cải lương ngày nay, với nghệ sĩ, có người cũng có huy chương vàng nầy nọ, nhưng lối diễn và giọng ca chưa làm người xem vừa ý. Ví dụ như một nữ nghệ sĩ quá “điệu”, làm duyên làm dáng thái quá, khiến người coi phải “mắc cở giùm”; hay có một nam nghệ sĩ giọng ca eo éo như con gái, diễn xuất với chân tay cứng ngắt, diễn như vậy làm sao tồn tại với tầng lớp khán giả có tầm mức thưởng thức như hiện nay? Mới hay, huy chương là một đường, còn ca diễn đi vào lòng người mới là đích thực.
Về soạn giả và kịch bản (thường vốn đi đôi) thì rõ là một vấn đề đã bàn nhiều, song vở tuồng để lại trong lòng công chúng thì không đáng kể!
Điều cần nói thêm là, người xem cải lương ngày nay rất bực mình về câu vọng cổ đã bị soạn giả phá đi nét truyền thống, nhào nắn thành dị hình dị dạng: Ca sĩ phải nổi gân cổ “nuốt” hơn một trăm chữ trước khi “xuống hò” (câu 1). Đó là sự chế biến lập dị, làm người ca mệt, mà người nghe/xem cũng “mệt”, ngao ngán, chán chường! Các soạn giả ấy đã cố tình “làm cho lạ”, nhưng đã vô tình làm cho bản vọng cổ hết... “muồi”, vốn là sở trường của cổ nhạc.
Cải lương càng ngày càng vắng khách, kể cả những người lớn tuổi ở quê, vốn là thành phần “mê” cải lương nhất, giờ họ cũng lơ là.
Trên đây là những cảm nhận từ hàng ghế khán giả hơn là người trong nghề, vì vậy sự chủ quan sẽ không tránh khỏi. Thế nhưng, với ý thức dân tộc về một loại hình nghệ thuật - cải lương - bài viết này như tiếng lòng.