Trang 1/2 1 2 CuốiCuối
  1. Koala
    Avatar của Koala
    Hệ thống chữ đờn trong nhạc Tài Tử:

    Hò, Xự Xư (Y), Xang, Xê, Cống, Phan (Oan), Liu tương đương với Rê, Mi, Fa, Sol, La, Si, Đô, Rế của nhạc tây phương

    Hò I: Sol
    Hò II: La
    Hò III: Đô
    Hò IV: Rê
    Hò V: Mi

    Hò, Liu: Cùng một âm nhưng ở độ trầm và bổng, tương tự với các âm:
    Tồn, Xàng
    Tang, Liu
    Là, Hò
    La Liu
    Tịch, Cộng chận không rung
    Tích, Xáng chận không rung

    Nhịp sử dụng bao gồm nhịp nội, nhịp ngoại, nhịp mô. Đờn chầu là những nhịp đờn không có lời ca.

    DANH SÁCH CÁC BÀI BẢN NHẠC TÀI TỬ NAM BỘ
    (Không kể các bài Lý và bài bản của sân khấu cải lương)

    I. Các bản gốc miền trung (Nhịp đôi, song lang chiếc)

    1. Lưu Thủy Đoản (16 câu)
    2. Bình Bán Vắn (22)
    3. Kim Tiền Huế (13)
    4. Hành Vân (21)
    5. Tứ Đại Cảnh (46)

    II. Các bản Bắc

    A. Thập Bát Thủ

    (Nhịp đôi, SLC)

    1. Thủ Lưu Thủy Tẩu Mã (16 câu)
    2. Thủ Phú Lục Tẩu Mã (17)
    3. Thủ Bình Bán Tẩu Mã (22)
    4. Thủ Cổ Bản Tẩu Mã (34)
    5. Thủ Xuân Tình Tẩu Mã (24)
    6. Thủ Tây Thi Tẩu Mã (26)

    (Nhịp tư)

    7. Thủ Lưu Thủy Vắn (16 câu)
    8. Thủ Phú Lục Vắn (17)
    9. Thủ Bình Bán Vắn (22)
    10. Thủ Cổ Bản Vắn (34)
    11. Thủ Xuân Tình Vắn (24)
    12. Thủ Tây Thi Vắn (26)

    13. Thủ Lưu Thủy Trường (32 câu)
    14. Thủ Phú Lục Chấn (34)
    15. Thủ Bình Bán Chấn (44)
    16. Thủ Cổ Bản Trường (6
    17. Thủ Xuân Tình Chấn (4
    18. Thủ Tây Thi Trường (52)

    B. Thập Bát Vĩ

    (Nhịp đôi, SLC)

    1. Lưu Thủy Tẩu Mã (16 câu)
    2. Phú Lục Tẩu Mã (17)
    3. Bình Bán Tẩu Mã (22)
    4. Cổ Bản Tẩu Mã (34)
    5. Xuân Tình Tẩu Mã (24)
    6. Tây Thi Tẩu Mã (26)

    (Nhịp tư)

    7. Lưu Thủy Vắn (16 câu)
    8. Phú Lục Vắn (17)
    9. Bình Bán Vắn (22)
    10. Cổ Bản Vắn (34)
    11. Xuân Tình Vắn (24)
    12. Tây Thi Vắn (26)

    13. Lưu Thủy Trường (32)
    14. Phú Lục Chấn (34)
    15. Bình Bán Chấn (44)
    16. Cổ Bản Trường (6
    17. Xuân Tình Chấn (4
    18. Tây Thi Trường (52)

    C. Sáu bản Bắc Tẩu Mã cải biên

    Gồm 6 bài Tẩu Mã như phần Thập Bát Vĩ nhưng bộ nhịp và chữ đờn khác, được sao chép lại trong tập nhạc của cố nhạc sĩ Tư Nghi

    III Bộ Ngũ Châu

    (Nhịp tư)

    1. Kim Tiền Bản (16 câu)
    2. Ngự Giá (14)
    3. Hồ Lan (12)
    4. Vạn Liên (10)
    5. Song Phi Hồ Điệp (20 câu, chuyển hơi từ Bắc sang Oán, Hò 4 qua Hò 2 hoặc Hò 1 qua Hò 4)

    IV. Bộ Tứ Bửu

    (Nhịp 4)

    1. Minh Hoàng Thưởng Nguyệt (18 câu)
    2. Ngự Giá Đăng Lâu (14)
    3. Phò Mã Giao Duyên (12)
    4. Ái Tử Kê (19)

    V. Bộ Thập Thủ Liên Hườn

    (Nhịp đôi)

    1. Phẩm Tuyết (48 câu)
    2. Nguyên Tiêu (32)
    3. Hồ Quảng (12)
    4. Liên Hườn (40)
    5. Bình Nguyên (44)
    6. Tây Mai (23)
    7. Xuân Phong (10)
    8. Long Hổ (7)
    9. Tẩu Mã (34)

    VI. Bộ Cửu Nhĩ

    (Nhịp tư)

    1. Hội Ngươn Tiêu (32)
    2. Bát Bản Chấn (72)

    VII Các bài Nhạc Lễ

    (Nhịp tư)

    1. Xàng Xê (64 câu)
    2. Ngũ Đối Thượng (61)
    3. Ngũ Đối Hạ (3
    4. Long Đăng (40)
    5. Long Ngâm (33)
    6. Vạn Giá (47)
    7. Tiểu Khúc (29)

    8. Ngũ Đối Ai (3
    9. Chiết Tử Vĩ (33)

    VIII. Các bản Nam

    (Nhịp tư)

    1. Nam Xuân (68 câu)
    2. Nam Ai (84)
    3. Đảo Ngũ Cung (52)
    4. Song Cước (15)

    Trước kia, khoảng cuối thế kỷ 19 và những năm đầu thế kỷ 20, đờn 3 bản Nam phải đờn suốt 239 câu (68 xuân + 4 phản xuân + 80 ai + 20 xuân + 4 phản xuân + 48 đảo + 15 song cước)

    IX. Các bản Oán

    (Nhịp tư)

    1. Tứ Đại Vắn (19 câu)

    (Nhịp tám)

    2. Tứ Đại Oán (38 câu)
    3. Phụng Hoàng Cầu (4
    4. Giang Nam Cửu Khúc (5
    5. Phụng Hoàng Cầu Duyên (40)
    6. Ngươn Tiêu Hội Oán (32)
    7. Võ Văn Hội Oán (32)
    8. Bình Sa Lạc Nhạn (37)
    9. Thanh Dạ Đề Quyên (32): cố nhạc sĩ Nguyễn Văn Thinh, sác tác năm 1931

    X. Tám Bản Ngự

    (Nhịp đôi, SLC)

    1. Đường Thái Tôn (32 câu)
    2. Vọng Phu (33)
    3. Chiêu Quân (43)
    4. Ái Tử Kê (19)


    5. Bát Man Tấn Cống (48 câu nhịp tư)
    6. Tương Tư (77 câu nhịp đôi, SLC)
    7. Duyên Kỳ Ngộ (62 câu nhịp đôi, SLC)
    8. Quả Phụ Hàm Oan (59 câu nhịp đôi, SLC)

    XI. Các bản Ai - Oán

    1. Trường Tương Tư (28 câu nhịp tư lơi)
    2. Văn Thiên Tường (42 câu nhịp
    3. Võ Tắc Biệt (42 câu nhịp : sưu tầm của cố nhạc sĩ Hai Biểu
    4. Võ Tắc Biệt (30 câu nhịp : sưu tầm của nhạc sĩ Bảy Phuôn, Gò Vấp
    5. Xuân Nữ (16 câu nhịp
    6. Khổng Tử Khóc Nhan Hồi (29 câu nhịp đôi, SLC): sưu tầm của cố nhạc sĩ Nguyễn Tùng Bá
    7. Chinh Phụ Ly Tình (16 câu nhịp tư): thường được chơi tiếp sau bản Song Phi Hồ Điệp của bộ Ngũ Châu

    XII. Các bản nhiều hơi điệu:

    1. Liêu Giang (16 câu nhịp tư): Nhạc sĩ Ba Chột, Bạc Liêu sáng tác
    2. Ngũ Quan (14 câu nhịp tư): Nhạc sĩ Ba Chột
    3. Hoài Lang (20 câu nhịp đôi hơi Bắc Dựng): Nhạc sĩ Cao Văn Lầu, sáng tác khoảng năm 1919, 1920
    4. Tứ Bửu Liêu Thành (28 câu nhịp tư): Nhạc sĩ Ba Chột
    5. Ngũ Châu Minh Phổ (40 câu nhịp tư): Nhạc sĩ Nguyễn Văn Thinh, sáng tác năm 1979
    6. Nam Âm Ngũ Khúc (40 câu nhịp tư): Nhạc sĩ Nguyễn Văn Thinh, sáng tác năm 1980
    7. Ngũ Cung Luân Hoán (30 câu nhịp tư): Nhạc sĩ Nguyễn Văn Thinh, sáng tác năm 1980
    8. Khúc Hận Nam Quan (Dây Quả Phụ, 25 câu nhịp 8 chuyển nhịp tư): Nhạc Sĩ Năm Vinh, sáng tác kỷ niệm 600 năm Nguyễn Trãi
    9. Ngũ Khúc Long Phi (30 câu nhịp 4): Nhạc Sĩ Mười Phú

    XIII Tam Bắc Nhị Oán: Nhạc sĩ Chín Tâm sưu tầm tại Mỏ Cày, Bến Tre

    (Nhịp tư hơi Bắc)

    1. Hội Huê Đăng (35 câu)
    2. Lục Luật Tiêu Hà (29)
    3. Bắc Ngự (39)

    (Nhịp tám hơi Oán)

    4. Quả Phụ Hàm Oan (34 câu)
    5. Xuân Tình Bát Oán (34)
    Trả lời với trích dẫn Trả lời với trích dẫn  

  2. The Following 5 Users Say Thank You to Koala For This Useful Post:

    danhmat (03-08-2012), huongle (03-08-2012), romeo (29-07-2016)

  3. Koala
    Avatar của Koala
    Giữa cuối thế kỷ 19, nhạc tài tử được phổ biến ở đất nam bộ là do các thầy đờn gốc miền trung cùng một số sĩ tử ra kinh đô Huế du học mang về. Nhạc tài tử lúc ấy còn nghèo nàn về bài bản cũng như hơi điệu, chỉ có vài bản Lý, vài bản hơi Bắc, Nam, Dựng...

    Từ khi một số nhạc công của triều đình bỏ kinh thành vào nam cũng như sau này có một số sĩ phu yêu nước hưởng ứng phong trào Cần Vương do vua Hàm Nghi khởi xướng (1885) bị Pháp lưu đày làm nghề dạy nhạc, thâu nhận học trò, thì từ đó nhạc tài tử đã trở thành một phong trào rộng khắp nam bộ.

    Tiếp thu được những tinh hoa của nền âm nhạc ngũ cung đông phương cũng như với trình độ học vấn uyên thâm, họ đã cải biên những bài bản của ca nhạc Huế và đồng thời sáng tác mới một số bài bản và lời ca hợp với ngôn ngữ của cư dân vùng đất mới, tạo thành những nhạc phẩm hoàn chỉnh mang tính bác học.

    Nhạc Tài Tử là một loại nhạc có tính chất tiêu khiển khi nhàn rỗi, không có tính sân khấu, chỉ cần vài ba người với vài ba cây đờn trong số các nhạc cụ như Tranh, Kìm, Cò, Gáo, Tỳ Bà, Tam, Đoản, Tiêu, Sáo, Độc Huyền, Song Lang, ngồi dưới bóng cây, trên ván hay quanh bàn tròn là có thể du dương bổng trầm trong tiếng nhạc lời ca.

    Nhạc tài tử là loại nhạc tâm tấu, tức do tâm tư tình cảm và sự cảm hứng ngoại cảnh mà tự do sáng tạo chữ đờn. Như vậy bản đờn có quyền thúc nhịp hoặc lơi nhịp tùy theo người đờn ca chung với mình, cũng như có quyền thêm hay bớt chữ đờn trong lòng câucu3a bài bản miễn là giữ đúng điệu và đúng nhịp mà thôi.

    Tên những bài bản nhạc tài tử thường không liên quan đến tính chất làn điệu, chẳng hạn như bài Lưu Thủy đờn lên không nghe tiếng nước chảy, bản Hành Vân không thấy mây bay, ngoại trừ bản Xuân Tình (lớp Điểu Ngữ), Ái Tử Kê, đờn và gõ mô tượng trưng tiếng chim kêu, tiếng gà con mổ trên nia gạo.

    Cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, tại Nam Bộ đã có 2 nhóm nhạc Tài Tử đua nhau quyết liệt về sáng tác bài bản để thu hút môn đệ về mình. Đó là nhóm nhạc Tài Tử miền Đông do ông Nguyễn Quang Đại tức Ba Đợi làm trưởng nhóm và nhóm nhạc Tài Tử miền Tây do ông Kinh Lịch Trần Quang Quờn làm trưởng nhóm, đã làm cho kho tàng nhạc tài tử thêm phong phú về số lượng bài bản và hơi điệu.

    Trước tiên hãy nói về nhóm nhạc miền Tây. Nhóm nhạc này dưới sự cộng tác của ông Nguyễn Liêng Phong (thầy đờn kim nhà văn), Phạm Đăng Đàng (sĩ phu yêu nước gốc miền Trung bị Pháp lưu đày, soạn bài ca), Nguyễn Tòng Bá (thầy đờn, con ông Nguyễn Liêng Phong), cùng các ông Thập, ông Thủ (thầy đờn), chủ trương duy trì nguyên tắc đã được các bài bản nhạc miền Trung áp dụng để cấu tạo âm thanh, vẫn giữ đúng 3 nhịp: Nội, Ngoại Hoán Pháp và Chánh Thất, thâu nạp một số bài bản đã có sẵn và sáng tác mới, nhưng vẫn giữ nguyên vẹn phương thức, âm tiết của nhạc miền Trung. Do đó các sáng tác của nhóm này giới chơi nhạc tài tử ít hưởng ứng.

    Trái lại, nhóm nhạc miền Đông được sự cộng tác của nhiều văn nhân lỗi lạc cùng với số học trò tài ba của ông Nguyễn Quang Đại như: Sáu Thời, Bảy Nhỏ, Tám Hạnh, Cao Quỳnh Cư, Cao Quỳnh Diêu, Sáu Thoàn, Chín Chiêu, Năm Tịnh, Năm Khiết, Ba Đồng, Năm Cần, Giáo Thịnh, Cao Hoài Sang, đã cải biên các bài bản của ca nhạc miền Trung bằng cách giản dị hóa lối ấn nhịp để tạo ra nhạc điệu hòa hợp với ngôn ngữ Nam Bộ. Bài bản chỉ có 2 nhịp: Nhịp Nội và Nhịp Ngoại.

    Từ đầu thế kỷ 20, giới chơi nhạc Tài Tử muốn tranh đua thách thức nhau đều mang số bài bản thuộc 4 hơi điệu Bắc, Nam, Hạ, Oán ra làm căn bản để so tài. Sau này các sáng tác mới cũng chưa thấy có bài bản nào vượt qua hơi điệu Bắc, Nam, Hạ, Ngự, Oán, mà còn giữ được sự chánh thống của 2 dòng âm nhạc bình dân và bác học Việt Nam.

    Theo Nhị Tấn
    Trả lời với trích dẫn Trả lời với trích dẫn  

  4. The Following 4 Users Say Thank You to Koala For This Useful Post:

    danhmat (03-08-2012), huongle (03-08-2012)

  5. Koala
    Avatar của Koala
    Điệu thức Bắc:

    Chơi nhạc tài tử, bao giờ cũng mở đầu bằng điệu thức Bắc. Điệu này theo hệ thống ngũ cung chánh Hò, Xự, Xang, Xê Cống, không nhấn không rung, lấy âm Xàng Liu làm âm chủ.

    Điệu Bắc gồm có 6 bản Tổ, mỗi bản lấy một chữ trong hệ thống ngũ cung chánh làm chữ khởi đầu: Lưu Thủy (Hò), Phú Lục (Xự), Bình Bán (Xang), Cổ Bản (Xê), Xuân Tình (Cống), Tây Thi (Liu đồng âm với Hò nhưng ở cung cao).

    Bốn bản đầu là bốn bản đã cải biên và nới nhịp theo phong cách nhạc Tài Tử Nam Bộ của bốn bản nhạc miền Trung. Bản Xuân Tình là một sáng tác mới, chỉ lấy cái tên Xuân Tình của bản Xuân Tình Điểu Ngữ ghi trong nhạc mục đời vua Tự Đức mà thôi. Bản Tây Thi do nhóm nhạc sĩ đi dự Vạn Quốc Bác Lãm Hội tại Paris năm 1900 sáng tác để mỉa mai chuyện cổ nhạc Việt Nam đi Tây để thi trước hội đồng giám khảo toàn là người Pháp.

    Sáu bản Bắc lại được chia ra làm sáu bản Bắc Thủ và sáu bản Băc Vĩ. Mỗi bản có 3 cách nhịp: cấp điệu (nhịp tẩu), trung điệu (nhịp vắn), và quãng điệu (nhịp chấn, nhịp trường), như vậy tạo thành 18 bản Thủ và 18 bản Vĩ thường được gọi là Thập Bát Thủ và Thập Bát Vĩ.

    Thông thường trong buổi đờn ca thì 6 bản bắc được chơi theo từng cặp theo thứ tự: Lưu Thủy Phú Lục, Bình Bán Xuân Tình, Tây Thi Cổ Bản. Thủy là nước, người xưa có quan niệm nước là điều kiện đầu tiên để vạn vật sinh sống, Phú là giàu có, do đó 2 bản Lưu Thủy và Phú Lục thường được mở đầu nhằm mục đích chúc tụng nhau làm ăn giàu có như nước chảy xuôi dòng. Đây cũng là một ý nghĩa đẹp của người đi trước.
    Trả lời với trích dẫn Trả lời với trích dẫn  

  6. The Following 4 Users Say Thank You to Koala For This Useful Post:

    danhmat (03-08-2012), huongle (03-08-2012)

  7. Koala
    Avatar của Koala
    Điệu thức Nam:

    Gồm có 3 bản Nam Xuân, Nam Ai và Nam Đảo (Đảo Ngũ Cung) cấu trúc bằg 5 âm chánh Hò Xự Xang Xê Cống nhưng nhấn và rung ở những chữ Xừ Xang Xê Cống. Những láy đờn thường gói gọn trong một ngũ cung. Ba bản này có 3 âm sắc khác nhau không ảnh hưởng đến hơi điệu nào trong nhạc tài tử

    Nam Xuân: Tính chất ung dung nhẹ nhàng, man mác vì chỉ nhấn và rung nhẹ ở chữ Xừ, Xang và Xê. Âm chủ của hơi Xuân là Xàng Xang. Nếu ta dùng khái niệm cứng (Bắc), mềm (Ai) thì hơi Xuân còn giữ một phần độ cứng của điệu Bắc

    Nam Ai: Nhấn và rung mạnh ở chữ Xự, chữ Xang và qua lớp Mái nhấn và rung mạnh chữ Cộng nên điệu nhạc nghe buồn thảm, tỉ tê, bi lụy, tuyệt vọng và nức nở vì có những nhịp đảo phách trong lòng câu.

    Nam Đảo (Đảo Ngũ Cung): Cấu tạo bởi 2 hơi Xuân và Bắc cùng hơi Dựng. Nam Đảo hình thành trên thang âm Hò, Xự, Xang, Xê, Cống xen lẫn với điệp khúc Xề Ú Liu Phan nghe như có sự đảo cung từ hơi dây này sang hơi dây kia. Từ bản Nam Ai chuyển sang bản Đảo Ngũ Cung, dòng nhạc biến đổi tính chất khẩn trương, quyết liệt.

    Ba bản Nam kể trên do ông Ba Đợi lấy hơi điệu của các bản miền Trung viết mới lại theo phong cách nhạc tài tử Nam Bộ. Xưa đờn điệu thức Nam phải đờn liên hoàn Nam Xuân, Nam Ai, và Nam Đảo, gồm 239 câu. Song vì có nhiều lớp lặp lại nên hiện tại giới giới chơi nhạc tài tử đờn từng bản và bỏ bớt những lớp trùng. Lớp Trống Xuân được các ông Sáu Thoàn, Chín Chiêu (Cần Đước) chuyển từ hơi Xuân qua Ai tiếp theo bản Nam Đảo và chuyển cung từ Hò Tư sang Hò Nhất và gọi là 2 lớp song cước.
    Trả lời với trích dẫn Trả lời với trích dẫn  

  8. The Following 3 Users Say Thank You to Koala For This Useful Post:

    danhmat (03-08-2012), huongle (03-08-2012)

  9. Koala
    Avatar của Koala
    Điệu thức Oán:

    Điệu thức Oán là điệu đặc thù được sáng tạo tại đất Nam Bộ. Ông Ba Đợi chuyển hơi, chuyển cung và phát triển bản Tứ Đại Cảnh của nhạc miền Trung từ hơi Bắc dựng thành hơi Oán.

    Giai đoạn đầu, khoảng cuối TK 19, bài bản Tài Tử có thêm một bản hơi Oán và đó là bản Tứ Đại Vắn cũng còn gọi là Tứ Đại Cảnh Nam Phần nhịp tư. Giai đoạn tiếp theo, những ngày đầu thế kỷ 20, bản Tứ Đại Vắn được phát triển từ nhịp tư sang nhịp tám, được phân câu, phân lớp, nhịp nội, nhịp ngoại, gõ mô, đờn chầu, thì hơi điệu oán mới xứng danh là một điệu thức riêng biệt với hơi Ai của điệu Nam.

    Điệu Oán có cấu trúc các láy đờn thường đi từ hai ngũ cung và một điểm đặc thù của điệu thức này là nhiều câu trong các lớp thường xuyên có mặt chữ Oan (chữ Phan nhấn và rung mạnh) nên nghe buồn nhưng buồn kiểu bi hùng.

    Điệu thức Oán gồm có 4 bản Oán chánh thống là Tứ Đại Oán, Phụng Hoàng, Giang Nam Cửu Khúc và Phụng Cầu Hoàng Duyên tức Phụng Cầu. Bốn bản Oán Phụ hay Ngoại Oán gồm có Bình Sa Lạc Nhạn, Thanh Dạ Đề Quyên, Ngươn Tiêu Hội Oán và Võ Văn Hội Oán lần lượt ra đời sau đó và có cấu trúc đúng điệu thức Oán nhưng không tạo được sắc thái mới, thậm chí có bản còn trùng lặp nhiều câu của 4 bản Oán chánh thống.

    Bản Tứ Đại Cảnh tương truyền là của vua Tự Đức sáng tác để ca ngợi 4 cảnh lớn của trời đất: Xuân, Hạ, Thu, Đông, nhưng cũng có người cho là vua Tự Đức có ngụ ý tôn vinh 4 cảnh thuộc đời vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức (chữ Đại trong Tứ Đại Cảnh được hiểu là Triều Đại)

    Tên gọi Tứ Đại Oán cũng có nhiều thuyết:

    1. Để đối lại sự tôn vinh 4 cảnh đời vua triều Nguyễn, giới nhạc Tài Tử Nam Bộ đã mỉa mai chế độ phong kiến triều Nguyễn vì bất lực trước nạn ngoại xâm, phế lập tùy tiện liên tiếp 4 đời vua Dục Đức, Hiệp Hòa, Kiến Phúc, Hàm Nghi mà mảnh đất thân yêu của tổ quốc cũng rơi vào tay giặc. Đúng là 4 cái oán lớn hoặc 4 đời oán hận của 4 đời vua sau Tự Đức

    2. Cấu trúc âm thanh có nhiều chữ Oan (chữ Cộng nhấn mạnh, ở hơi Nam gọi là Phan, ở hơi Oán gọi là Oan) nên gọi là Tứ Đại Oán (Oan).

    3. Một số nhạc sĩ ảnh hưởng thuyết Phật giáo cho con người luôn bị đau khổ bởi Tứ Diệu Đế là Sanh, Lão, Bịnh, Tử.

    Sự đúng hay sai của các thuyết trên cần phải được nghiên cứu tiếp. Đối với các nhạc sĩ Tài Tử Nam Bộ, chữ Oán trong âm nhạc là để chỉ một điệu thức buồn sâu xa nhưng bi hùng chứ không bi lụy như hơi Ai trong điệu Nam.

    Hơi điệu Oán khi vừa xuất hiện thì đã tạo được một thời vàng son không thua kém gì bản vọng cổ ngày nay. Điệu Oán trở thành một âm điệu chủ đạo của nền ca nhạc Tài Tử Nam Bộ qua nhiều thập niên liên tiếp. Các tập bài ca Tứ, Lục, Bát, Thập Tài Tử xuất bản từ năm 1909 đến 1915 tại Sài Gòn đã chứng minh điều này. Một điểm quan trọng nữa là vào năm 1915, bản Tứ Đại Oán Bùi Kiệm Nguyệt Nga là bản ca Tài Tử đầu tiên được ông Tống Hữu Định tục danh ông Phó Mười Hai ở Vĩnh Long đưa lên bộ ván để ca ra bộ, mở màn cho sân khấu cải lương ra đời.

    Sự cấu trúc của bản Tứ Đại Oán rất chặt chẽ về mặt văn học nghệ thuật. Theo quyển Nghệ Thuật Sân Khấu VN của học giả Trần Văn Khải, một nhà sưu tầm nghiên cứu rất uy tín, thì người sáng tác bản Tứ Đại có thể là một nhạc sư kiêm thi sĩ. Bản Tứ Đại là một bài thơ Bát Cú Đường Luật. Các lớp 1, 2, Xang Dài 1, Xang dài 2, Xang Vắn 1, Xang Vắn 2, Hồi Thủ, Xang Dứt, tương ứng với các câu Phá, Thừa, Cặp Trạng, Cặp Luận, Câu chuyển, Câu Kết của bài thơ Đường.
    Trả lời với trích dẫn Trả lời với trích dẫn  

  10. The Following 3 Users Say Thank You to Koala For This Useful Post:

    danhmat (03-08-2012), huongle (03-08-2012)

  11. Koala
    Avatar của Koala
    Bảy Bài Nhạc Lễ (Hơi Hạ):

    Ông Ba Đợi không những dạy nhạc Tài Tử mà còn bổ sung và chấn chỉnh bộ môn nhạc lễ. Ông đã đem 7 bài Nhạc Lễ còn gọi là 7 bài Cò hay 7 bài Dây Nhạc truyền dạy cho các môn đệ nhạc Tài Tử.

    Bảy bài này cùng hệ thống với điệu thức Bắc nhưng dùng chữ Xề Ú làm âm chủ. Bảy bài nhạc lễ có cấu trúc chữ đờn đối nghịch với hơi điệu Bắc và nhất là phải lên dây nhạc (dây nhạc lễ) thì ta mới thấy hơi Hạ khác với hơi Bắc.

    Bảy bài nhạc lễ dùng trong các buổi tế lễ, tính chất trang nghiêm, được nhạc Tài Tử hóa với từng bản một ý nghĩa:

    1. Xàng Xê: Theo người xưa, cung Xàng áng theo thuyết âm dương ngũ hành tức là Thủy (nước), và Xê là Hỏa (lửa), do tính tương khắc tương sanh mà 2 cung Xàng và Xê đã hài hòa cấu tạo âm thanh, nâng cao nét sinh động phù hợp lẽ sống cuộc đời.

    2. Ngũ Đối Thượng: Năm điều Ngũ Thường Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín mà cổ nhân luôn quan tâm khi đề cập đến việc đối nhân xử thế: người trên đối với kẻ dưới

    3. Ngũ Đối Hạ: Năm điều ngũ thường mà kẻ dưới đối với người trên.

    4. Long Đăng: Đèn rồng (đèn của vua)

    5. Long ngâm: Khúc ngâm về rồng (ám chỉ vua)

    6. Vạn Giá: Mười ngàn xe của vua

    7. Tiểu Khúc: Khúc nhạc tóm tắt 6 bản nhạc đầu của 7 bài. Trong 7 bài, Tiểu Khúc là ngắn nhất.
    Trả lời với trích dẫn Trả lời với trích dẫn  

  12. The Following 3 Users Say Thank You to Koala For This Useful Post:

    danhmat (03-08-2012), huongle (03-08-2012)

  13. Koala
    Avatar của Koala
    Thập Thủ Liên Hườn:

    Nhóm nhạc Miền Tây đã lấy 10 bản của ca nhạc Huế gọi là 10 bản Khách, hay 10 bản Ngự, hay Liên Bộ Thập Chương, để nguyên cấu trúc chữ đờn du nhập vào hệ thống nhạc Tài Tử nam bộ và gọi tên là Thập Thủ Liên Hườn để kỷ niệm tên của 4 ông thầy đờn là cụ Thập, cụ Thủ, Nguyễn Liêng Phong, Trần Quang Quờn.

    Theo các bậc tiền bối, Thập Thủ Liên Hườn ra đời trong giai đoạn vào triều vua Quang Trung. Những bản nhạc này gắn liền với sứ bộ Nguyễn Huệ (1790) đến kinh đô Thanh triều nhân dịp triều thần cử hành lễ Vạn Thọ mừng Thanh đế Càn Long 80 tuổi. Ở Trung Quốc, sứ đoàn được hướng dẫn tham quan các di tích, thắng cảnh, và khi trở về nước làm 10 bài thơ liên hườn ca ngợi cảnh sắc tươi đẹp của nước này.

    Qua nội dung 10 bài thơ liên hoàn kể trên, vua Quang Trung truyền cho nhạc quan triều nội soạn thành 10 bản nhạc để tấu cho vua nghe với nội dung:

    1. Phẩm Tuyết: Ca ngợi phẩm giá của tuyết với một dải trắng xinh và sự vui chơi của dân chúng trong trò chơi trượt tuyết.

    2. Nguyên Tiêu: Ca ngợi lễ hội hoa đăng rằm tháng giêng của Trung Quốc.

    3. Hồ Quãng: Sứ đoàn được tham quan hồ rộng lớn và đẹp ở TQ

    4. Liên Hườn: Tả một điệu múa đẹp trong triều nội nhà Thanh mà các vũ công múa vòng tay liền tay.

    5. Bình Nguyên: Sứ đoàn xem cảnh đẹp của vùng đồng bằng bát ngát.

    6. Tây Mai: Nơi sứ đoàn ở, phía tây có cây mai nở hoa hoặc là một loại mai của các nước miền tây TQ (tây mai là mai Ấn Độ, Miến Điện..., nam mai là mai Việt Nam)

    7. Kim Tiền: Sứ đoàn vào chầu vua và được ban thưởng tiền vàng

    8. Xuân Phong: Sứ đoàn được vua Càn Long ban thưởng mát lòng hớn hở, chẳng khác nào đón được gió mùa xuân

    9. Long Hổ: Vua tôi gặp nhau như Rồng Cọp gặp nhau.

    10. Tẩu Mã: Sau cùng, sứ đoàn được vua Thanh tiển đưa và lên ngựa chạy nhanh về nước (koala: đi sứ sang TQ, lấy tiền xong chạy về )

    Nội dung từng bản nhạc trong bộ Thập Thủ Lên Hườn qua giai thoại với tình tiết đậm đà phong phú, giàu chất văn học, được giới chơi nhạc miên Trung cũng như giới chơi nhạc Tài Tử Nam Bộ rất tâm đắc.
    Trả lời với trích dẫn Trả lời với trích dẫn  

  14. The Following User Says Thank You to Koala For This Useful Post:

    danhmat (03-08-2012)

  15. Koala
    Avatar của Koala
    Tám bản Ngự:

    Tám bản Ngự do nhóm nhạc miền Đông Nam Bộ mà trưởng nhóm là ông Nguyễn Quang Đại tức Ba Đợi, lần đầu tiên đem ra giới thiệu với khách mộ điệu nhân dịp vua Thành Thái vào Sài Gòn (1898 - 1899). Hơi Bắc Ngự gồm các bản Đường Thái Tôn, Vọng Phu, Chiêu Quân, Ái Tử Kê, Bát Man Tấn Cống (hay Bắc Man Tấn Cống); hơi Ai Ngự gồm các bản Tương Tư và Duyên Kỳ Ngộ; hơi Oán Ngự là bản Quả Phụ Hàm Oan.

    Qua tên Ngự, tác giả muốn đề cập đến vua. Miền Nam là thuộc địa của Pháp lúc bấy giờ, nhân dân từ lâu nghe nói vua nhưng chưa được chiêm ngưỡng. Nhạy cảm trước thời cuộc và để nói lên tình cảm của người miền Nam đồi với vua của mình, cụ Ba Đợi dùng âm nhạc thay ngôn ngữ để nói lên lòng mong đợi, sự trung thành, yêu nước mến vua mà nội dung chứa đựng trong từng bản:

    1. Đường Thái Tôn: Ám chỉ vua Thành Thái là vị vua anh minh như vua Đường Thái Tôn ở TQ

    2. Vọng Phu: Nhân dân Nam Bộ tưởng nhớ vua như vợ nhớ chồng

    3. Chiêu Quân: Lòng người miền Nam trung quân, tiết liệt như nàng Chiêu Quân, hy sinh cho đất nước, đem thân cống Hồ, khi chết thi thể cũng quay về tổ quốc (koala: cái này phải là chiêu quân cống Pháp mới đúng )

    4. Ái Tử Kê: Đất Nam Bộ bị giặc Pháp chiếm, nhân dân Nam Bộ như bầy gà con bị giặc Pháp là con chồn ăn mất thật đáng thương

    5. Bát Man Tấn Cống (Bắc Man Tấn Cống): Nhớ thuở huy hoàng, Việt Nam là một cường quốc, các nước nhỏ phải hàng năm triều cống (koala: cái này nếu có thì chắc dùng từ Bát Man đúng hơn vì phương bắc là TQ đời nào tấn cống cho VN bao giờ)

    6. Tương Tư: Nhân dân Nam Bộ lúc nào cũng tưởng nhớ đến vua mình

    7. Duyên Kỳ Ngộ: Đất Nam Bộ đã giao cho Pháp, bất ngờ lại gặp được vua mình, đây quả là duyên kỳ ngộ.

    8. Quả Phụ Hàm Oan: Vua tưởng rằng tất cả người dân Nam Bộ đều ham mê bơ sữa hùa theo tân trào nhưng cũng có nhiều người muốn đuổi giặc Pháp xâm lăng. Nhân dân Nam Bộ giống như người quả phụ hàm oan.

    Tám bản Ngự mang âm hưởng phảng phất chất điệu nhạc cung đình.
    Trả lời với trích dẫn Trả lời với trích dẫn  

  16. The Following 2 Users Say Thank You to Koala For This Useful Post:

    danhmat (03-08-2012)

  17. Koala
    Avatar của Koala
    Ngũ Châu:

    Là 5 hạt châu do nhóm nhạc Tài Tử miền Đông khai sanh khoảng cuối thế kỷ 19, Ngũ Châu gồm:

    1. Kim Tiền Bản: Tiền vàng làm căn bản để vua ban thưởng cho người có công.

    2. Ngự Giá: Vua lên xe.

    3. Hồ Lan: Lan nước Hồ

    4. Vạn Liên: 10.000 bông sen

    5. Song Phi Hồ Điệp: Hai con bướm cùng bay

    Trong quá trình phát triển bản Song Phi Hồ Điệp, thầy đờn Ba Đồng (Cần Giuộc) chuyển hơi từ Bắc qua Ai Oán ở lớp chót và chuyển cung bậc, tạo nên nét truyền cảm sâu sắc

    Tứ Bửu:

    Do nhạc sanh Khị thuộc nhóm nhạc Tài Tử Bạc Liêu sáng tác khoảng đầu thế kỷ 20 để đáp lại bộ Ngũ Châu của nhóm nhạc miền Đông. Tứ Bửu là 4 báu vật, 4 bản nhạc đều mang hơi Bắc gồm:

    1. Minh Hoàng Thưởng Nguyệt: Vua Đường Minh Hoàng xem trăng

    2. Ngự Giá Đăng Lâu: Xe thiên tử lên lầu. Bản Ngự Giá Đăng Lâu làn điệu phảng phất hơi nhạc Triều Châu. Đây cũng là nét độc đáo của nhóm Tài Tử Bạc Liêu, mở màn cho loại bài bản cổ nhạc canh tân trên sân khấu cải lương sau này.

    3. Phò Mã Giao Duyên: Theo xưa, sau khi đổ Trạng Nguyên, vị quan này được nhà vua gã công chúa và làm phò mã. Bản này sao chép lại bản Hành Vân nhưng đổi câu và đổi nhịp.

    4. Ái Tử Kê: Cùng một ý nghĩa như bản Ái Tử Kê trong Bát Ngự và cùng số câu, nhưng chữ đờn viết khác và ít gõ mô.
    Trả lời với trích dẫn Trả lời với trích dẫn  

  18. The Following 2 Users Say Thank You to Koala For This Useful Post:

    danhmat (03-08-2012)

  19. Koala
    Avatar của Koala
    Những bài bản khác:

    Một số bài bản có cấu trúc lẫn lộn giữ hơi Ai và hơi Oán:

    Bản Trường Tương Tư thường gọi là Nam Cung Bình xuất xứ từ bản Nam Bình của nhạc miền Trung được cải biên theo cấu trúc của nhạc Tài Tử Nam Bộ.

    Tương truyền bản Văn Thiên Tường ra đời trước bản Tứ Đại Oán và do ông Trần Quang Thọ, một nhạc công của triều đình vô cư ngụ tại đất Mỹ Tho sáng tác vào những thập niên cuối thế kỷ 19. Ông cảm thấy hoàn cảnh nhà yêu nước Thủ Khoa Huân nổi lên chống giặc Pháp xâm lăng (trào vua Tự Đức), giống với hoàn cảnh của ông Văn Thiên Tường, vị quan trào Nam Tống (TQ) chống giặc Nguyên xâm lăng. Cả hai cuộc kháng chiến đều thất bại, hai ông đều bị giặc bắt, bị tù đày và đến khi xử tử vẫn hiên ngang khí tiết. Ông Trần Quang Thọ mới mượn tên của ông Văn Thiên Tường để đặt bài ca ngợi vị anh hùng dân tộc Thủ Khoa Huân của nước ta. Bản Văn Thiên Tường nơi lớp đầu và lớp Xế Xảng có hơi Ai và ở những lớp Dựng có hơi Oán với tính chất nhạc bi hùng ở những câu xuống xàng.

    Bản Võ Tắc Biệt ra đời sau bản Văn Thiên Tường. Theo cố nhạc sĩ Hồng Tấn Phát (Trà Vinh), do hưởng ứng phong trào Duy Tân của nhà cách mạng Phan Châu Trinh, bản Văn Thiên Tường và bản Võ Tắc Biệt được tác giả đặt tên căn cứ những chữ trong câu Văn Thông Thiên Đạt Địa Lý Tường Tận, Võ Lực Tắc Thời Biệt Dạng (văn chương và khoa học mà trao dồi, hiểu biết tường tận thiên văn địa lý, thời võ lực không cần sử dụng đến cũng giải phóng được dân tộc).

    Hai bản Hội Ngươn Tiêu (hơi Bắc) và Bát Bản Chấn (hơi Bắc có chuyển hơi Hạ và hơi Ai) từ lâu đã gắn liền cái tên Cữu Nhĩ trong hệ thống bài bản nhạc Tài Tử.

    Có những bản được lắp ghép bởi nhiều hơi điệu được giới đờn ca hoan nghênh vì không nhàm chán. Ở thể loại này, nhóm Tài Tử Bạc Liêu đã nổi tiếng với những bài bản lắp ghép hơi điệu của những bài bản có sẵn, tạo ra những bản nhạc có giá trị như Liêu Giang, Ngũ Quan, Hoài Lang.

    Bản Hoài Lang (Dạ Cổ Hoài Lang) do cố nhạc sĩ Cao Văn Lầu sáng tác vào khoảng năm 1919, 1920 thực chất là một bản được lắp ghép một phần của bản Hành Vân và bản Tứ Đại Cảnh. Bản này đã không ngừng được giới đờn ca phát triển từ nhịp đôi sang nhịp 4, nhịp 8, nhịp 16, nhịp 32, nhịp 64 và trở thành bản Vọng Cổ được mệnh danh là bản nhạc vua của sân khấu cải lương.

    Bản Tứ Bửu Liêu Thành do nhạc sĩ Ba Chột (Bạc Liêu) sáng tác gồm các hơi Bắc, Xuân, Ai, Oán, Ngự đã gợi hứng cho ông Nguyễn Văn Thinh (TP Hồ Chí Minh) sáng tác bài Ngũ Châu Minh Phổ với sự chuyển cung và chuyển điệu từ các dây Hò I, Hò II, Hò III, Hò IV và trở lại Hò I trong 5 lớp để đối lại. Tứ Bửu Liêu Thành có nghĩa là 4 báu vật của thành phố Bạc Liêu và Ngũ Châu Minh Phổ có nghĩa là 5 hạt châu do thành phố Hồ Chí Minh phổ biến. (koala: vậy thì bài Ngũ Châu Minh Phổ phải có tuổi đời rất trẻ)

    Cùng thể loại này còn có các bản Nam Âm Ngũ Khúc, Ngũ Cung Luân Hoán, Khúc Hận Nam Quan, Ngũ Khúc Long Phi đã được giới nhạc Tài Tử hoan nghênh.

    Năm 1943, nhạc sĩ Chín Tâm đã sưu tầm tại Mỏ Cày (Bến Tre) 5 bản gọi là bộ Tam Bắc Nhị Oán gồm Hội Huê Đăng, Lục Luật Tiêu Hà, Bắc Ngự (3 bài này theo hơi bắc), Quả Phụ Hàm Oan và Xuân Tình Bát Oán (2 bản này theo hơi Oán). Qua cái tên của bài bản cho thấy tác giả là một người yêu nước đã hưởng ứng sự sáng tác 8 bản ngự của nhóm nhạc miền Đông.
    Trả lời với trích dẫn Trả lời với trích dẫn  

  20. The Following 2 Users Say Thank You to Koala For This Useful Post:

    danhmat (03-08-2012)

Trang 1/2 1 2 CuốiCuối
ANH EM CHANNEL