Nhà thơ Kiên Giang - Hà Huy Hà là người làm thơ tình chân quê Nam bộ hiếm hoi còn sót lại ở thiên niên kỷ thứ ba nầy. Đọc thơ ông là thấy cả tuổi thơ ấu ở miệt vườn, gánh hát cúng đình, ngọn khói đốt đồng, nghe văng vẳng tiếng xe bò lốc cốc…Có lần ngồi quán cóc ông buột miệng đọc bốn câu ca dao :
Lồng đèn treo cột đáy
Nước xoáy lồng đèn xoay
Dĩa nghiêng múc nước sao đầy
Lòng thương người nghĩa ba má rầy cũng thương
Tôi reo lên: "Hay quá ! Sao không thấy in trong sách ?". Ông cười, nói nhỏ : "Bà già tao đọc, ngâm nga ru ngủ hồi nhỏ, riết rồi nhập tâm".
Nhà thơ Kiên Giang sinh ngày 17-2-1929, tên thật là Trương Khương Trinh tại làng Đông Thái, huyện An Biên tỉnh Kiên Giang, cùng quê với nhà văn Sơn Nam. "Vốn liếng về từ ngữ người Kiên Giang rất ít, hàng ngày sống lân la với người Hoa bán tạp hóa và người Khơ-me làm ruộng. Ở đây có thể nói tiếng Việt không phát triển, lại thêm "tiếng lóng" mà người địa phương khác khó chấp nhận. Vốn duy nhất là ca dao được mẹ dạy cho, từ thuở ấu thơ. Vốn quan trọng hơn vẫn là cái tâm, lòng yêu nước, muốn giới thiệu tâm hồn người dân nghèo xóm mình với cả nước, cùng chia sẻ buồn vui (Sơn Nam - Cùng bạn đoc - Lời tựa tập Hoa trắng thôi cài trên áo tím NXB Văn Học 1/1995).
Ông từng tự bạch : "Năm 1943 tôi học trường tư Lê Bá Cang (Sài Gòn). Ăn cơm tháng, ở nhà trọ trên một ốc đảo đường Hàng Sanh (nay là Bạch Đằng) gần chùa Long Vân. Khi thức đêm học bài, tôi thấy và nghe hình tượng nhạc xe bò. Đêm nào đoàn xe bò ấy cũng lăn bánh ngang cửa thảo trang. Một thứ nhạc khô khan và thắm thiết, triền miên mà nức nở ngân vang từ những móng sắt vành xe. Tôi thao thức vì ghiền nghe nhạc xe bò, cố tìm những nét sống đẹp để tô điểm thành thơ. Hình ảnh một chiếc võng giăng dưới dạ xe chở phân rác, bốn móng bò mòn lẵn, chiếc roi tơi tả, ngọn đèn chong leo lét nhất là mái tóc phong trần luôn rối tung chính là những nét sống - trong một nếp sống nghèo mà đẹp - của người mẹ đánh xe bò. Tất cả là thơ và nhạc. Tôi đã ôm ghì được vú sữa của nguồn hứng cảm nhưng chắc hẳn chỉ ghi lại được một vài góc cạnh mà thôi. 14 năm sau, kể từ năm 1943, khi trở lại xóm chùa Long Vân, tôi không tìm được nhà trọ năm nào. Nhà tường mọc lên, người cũ đi mất, chết hoặc bị xua đuổi. Năm 1993, xóm chùa, xóm Hàng Sanh đã bị xóa mất. Người cũ mất hết. Chiếc xe bò chỉ còn trong ký ức.
Bùi Giáng trong quyển "Đi vào cõi thơ" NXB Ca Dao 10/1969 viết : "'Lành mạnh, thanh cao, vị tha và ái quốc', ông Thiếu Sơn nói không sai một tấc một ly nào cả, khi giới thiệu thơ Kiên Giang. Ông Kiên Giang tuyệt nhiên "không cầu kỳ, không giả tạo" mà đạt tới chỗ sâu thẳm nhất trong linh hồn mọi người, một cách thuần nhiên.
….Quê Hương Thơ Ấu của Kiên Giang sẽ nằm trong Nước Việt như Kinh Thư nằm trong nước Tàu. Một Quê Hương bình dị thiết tha và hình như chúng ta đang đánh mất. Chỉ kêu gọi về trong những trận chiêm bao".
Thơ Kiên Giang có nhiều câu phổ biến rộng rãi như :
Ong bầu đậu đọt mù u
Lấy chồng càng sớm tiếng ru càng buồn
Ngày mai đám cưới người ta
Cớ sao sơn nữ Phà Ca lại buồn
Đói lòng ăn nửa trái sim
Uống lưng bát nước đi tìm người thương
Và trong bài thơ "Tiền và lá" ông đề: "Kính tặng thi sĩ Nguyễn Bính để nhớ ngày tá túc ở xóm biển Kiên Giang", có lúc bị nhầm là thơ Nguyễn Bính. Bài thơ có những câu phảng phất tâm hồn chân quê cảm động :
"Bây giờ những buổi chiều êm
Tôi gom lá đốt, khói lên tận trời
Người mua đã bị mua rồi
Chợ đời họp một mình tôi…vui gì !".
Kiên Giang còn là soạn giả cải lương lừng danh cùng thời Năm Châu, Viễn Châu, Hà Triều Hoa Phượng, Quy Sắc…với nghệ danh Hà Huy Hà (Áo cưới trước cổng chùa, Người vợ không bao giờ cưới…). Ngoài ra ông là ký giả kịch trường cho nhiều tờ báo lớn ở Sài Gòn trước 1975 như Tiếng Chuông, Tiếng Dội, Lập Trường, Điện Tín, Tin Sáng…, tham gia phong trào ký giả ăn mày chống Mỹ - Thiệu ngày 10-10-1974. Chính vở tuồng đầu tay của ông là Người vợ không bao giờ cưới đã tạo bệ phóng cho nghệ sĩ Thanh Nga đoạt giải Thanh Tâm, lên hàng ngôi sao trong giới cải lương. Ông lang thang rày đây mai đó, vẫn với bộ vó giang hồ, vai mang túi xách, đầu đội chiếc nón trắng ngã mầu, cả đời lận đận với nghiệp thơ. Sống cuộc sống vất vả, lúc về hưu lui tới thường xuyên Ban Ái hữu Nghệ sĩ số 133 đường Cô Bắc, mở lớp dạy đờn ca tài tử miễn phí cho học sinh trường khiếm thị Nguyễn Đình Chiểu, thật đúng là hình ảnh kẻ sĩ hiếm hoi trong thời buổi kinh tế thị trường.
Nhắc đến thơ Kiên Giang nhiều người nhớ ngay đến bài thơ nổi tiếng là Hoa trắng thôi cài trên áo tím. Chị Hà Khánh Phương cho biết chị còn giữ bài thơ nầy in dưới dạng tờ bướm từ lúc 17 tuổi đến nay trên 40 năm.
Nhạc sĩ Huỳnh Anh (con trai danh cầm Sáu Tửng) phổ nhạc, nhiều thế hệ ca sĩ hát bài này như Thanh Thúy, Hoàng Oanh, Giao Linh, Trường Thanh và Hồ Điệp ngâm nhiều lần trong chương trình tiếng thơ Mây Tần do Kiên Giang phụ trách trên đài phát thanh Sài Gòn. Kiên Giang cho biết : "Đây là tâm tình người trai ngoại đạo đối với cô gái có đạo. Mối tình học trò tinh khiết, ngây thơ, không nhuốm bụi trần. Năm 1944 tôi ở Cần Thơ học trường tư thục Nam Hưng, dốt toán nhưng giỏi luận chuyên làm bài giùm cho bạn cùng lớp, trong đó có NH. -cô bạn dễ thương thường mặc áo bà ba trắng, quần đen, mang guốc mộc. Có những buổi tan học lẽo đẽo đi theo sau NH. đến tận nhà cô ở xóm nhà thờ. Cách mạng nổ ra, không có tiền đi đò về quê, NH. biết ý gửi cho, rồi đi kháng chiến, gặp người quen trong đội quân nhạc nhắn:" Con Tám NH. vẫn chờ mày ". Năm 1955 tôi ghé ngang Cần Thơ, xin phép má của NH. tâm tình suốt đêm bên ánh đèn dầu Huê kỳ. Sau đó tôi nghe tin NH. lấy chồng có con đầu lòng đặt tên là tên ghép lại của tôi và NH. vì thế chồng cô biết rất ghen tức. Chính vì lý do nầy tôi đổi bốn câu kết bài thơ này, giống như tống tiễn mối tình học trò trinh trắng. Kết trước là : "Xe tang đã khuất nẻo đời/Chuông nhà thờ khóc tiễn người ngàn thu/Từ nay tóc rũ khăn sô/Em cài hoa tím trên mồ người xưa" thành cái kết : "Lạy chúa ! Con là người ngoại đạo/ Nhưng tin có chúa ở trên trời/Trong lòng con, giữa màu hoa trắng/Cứu rỗi linh hồn con Chúa ơi !"….Năm 1999 hãng phim TFS Đài truyền hình thành phố Hồ Chí Minh có làm phim " Chiếc giỏ đời người " về sự nghiệp hoạt động văn nghệ của tôi, khi trở về Cần Thơ quay lại cảnh trường cũ, mới hay tin là NH. mất năm 1998. Tôi mua bó huệ trắng, ra thăm mộ NH. ở nghĩa trang Cái Su. Đúng là 'Anh kết vòng hoa màu trắng lạnh/Từng cài trên áo tím ngây thơ/Hôm nay vẫn đóa hoa màu trắng/Anh kết tình tang gởi xuống mồ".
Nguyễn Văn Thức trong tờ bướm "Vài nhận định về thơ và các nhà thơ ở thành phố Hồ Chí Minh" có đoạn nhận xét về Kiên Giang: "Một nhà thơ chỉ còn giao lưu với Câu lạc bộ thơ Quận là chính, Hoa Trắng Thôi Cài Trên Áo Tím nay chỉ còn là kỷ niệm. Đôi khi tôi thấy nhà thơ buồn như sương giá, lạnh quanh đời". Tôi nghĩ một nhà thơ 76 tuổi, dời chỗ ở hơn chục lần, đấu tranh vì độc lập đất nước, làm thơ, soạn tuồng cải lương, viết báo tận tụy cống hiến cho đời, để lại nhiều câu thơ hay là một thành công về văn học, là một tâm gương sáng trong cuộc sống hôm nay. Nhà văn Sơn Nam tinh tế khi viết: "Một cuộc đời lăn lóc, chẳng bao giờ khấm khá, về già làm chuyện ái hữu, tương tế, quả là thành đạt, không xấu hổ với đất nước. Đây là một người bạn cùng xóm, cùng làng, cùng xứ U Minh mà tôi lấy làm tự hào và thật lòng ca ngợi".
Mới đây ngồi uống bia cùng ông ở quán cóc, trong một xóm lao động nghèo gần cầu Nhị Thiên Đường quận 8, ông bảo sắp bán nhà, giọng buồn buồn nặng trĩu tâm tư. Buổi chiều thành phố thường có những cơn mưa dông, gió giật mạnh, lạnh căm căm, thương Kiên Giang một đời tận tụy với thơ, với cuộc sống !
The Following User Says Thank You to trieuton For This Useful Post:
AnKhanh
Xin tặng TRIEUTON và ACE thành viên bài ca mà AnKhanh phóng tác (chuyển thể) từ bài thơ cùng tên HOA TRẮNG THÔI CÀI TRÊN ÁO TÍM của SG - NT KIÊN GIANG - HÀ HUY HÀ
================================================== =======
HOA TRẮNG THÔI CÀI TRÊN ÁO TÍM
(Kính tặng bậc lão bối SOẠN GIẢ - NHÀ THƠ KIÊN GIANG – HÀ HUY HÀ)
Thơ: Kiên Giang Vọng cổ: Trần Tuấn Kiệt
NÓI LỐI
Nam: Tác giả bài thơ đã bước qua tuổi bát tuần,
Bài thơ hơn năm mươi năm lưu truyền trong nhân thế, Nữ: Soạn giả - Nhà thơ, Kiên Giang - Hà Huy Hà là chỉ một,
Mà người đời thì bao bận suy ngẫm bài thơ.
NGÂM SA MẠC
Nam: Mười năm trước, em còn đi học
Áo tím điểm tô đời nữ sinh Nữ: Hoa trắng cài duyên trên áo tím
Em là cô gái tuổi băng trinh
SÂM THƯƠNG
Nam: Áo tím em bay bay, làm say tình chàng trai quê rừng biển, Nữ: Đông Thái, An Biên, Kiên Giang, là nơi anh đã sinh ra. Nam: Về học trường Cần Thơ, rồi anh yêu cô nữ sinh tên Nhiều,
Nữ: Chiều từng chiều bên nhau, chờ lễ xong hai bóng chung lối về.
VỌNG CỔ
1.Nam: Áo tím em bay bay, anh muốn cài vòng hoa màu trắng. Guốc mộc em mang, tan trường anh lẽo đẽo đi theo sau em về tận kế bên … nhà. Có tình ý với nhau sao ai chẳng dám nói câu nào. Nữ: Trường Nam Hưng có ra tờ báo, anh biên tập bài, em chép chữ đẹp, anh mê. Nam: Mái tóc buông dài xõa ôm kín bờ vai, lứa tuổi băng trinh hoa trắng cài duyên lên áo tím. Nữ: Rồi nóc giáo đường khói lấp, bom che, che kín người thương, che cả luôn chân trời cũ!
NGÂM SA MẠC
Nam: Từ lúc giặc ruồng vô xóm đạo
Anh làm chiến sĩ giữ quê hương Nữ: Giữ tà áo tím, người yêu cũ
Giữ cả lầu chuông, nóc giáo đường
2.Nam: Năm 1955 (12), anh ghé lại Cần Thơ, ghé nhà người yêu cũ, thức trắng thâu đêm cùng kể chuyện, tâm tình (16). Nữ: Mòn mỏi chờ đợi hơn mười một năm, rồi áo tím mới vu quy cất bước theo chồng (20). Nam: Bến Tre năm một ngàn chín trăm năm mươi tám, Hoa trắng thôi cài trên áo tím, anh viết thơ. Nữ: "Ba năm sau chiếc xe hoa cũ. Chở áo tím về trong áo quan. Chuông đạo ngân vang hồi vĩnh biệt. Khi anh ngồi kết vòng hoa tang..."
NÓI LỐI
Nam: Anh ghen giận ?! Anh đã cho người mình yêu phải chết,
Để mối tình mãi vẹn trinh nguyên, Nữ: Ở Sóc Trăng, khi đã có chồng, tình cờ gặp lại anh trong đoàn hát,
Hai vé hát anh mời!. Đêm diễn, hai ghế bỏ trống không.
ĐOẢN KHÚC LAM GIANG
(8 câu)
Nam: Còn buồn nào buồn hơn!
Áo tím xưa quên rồi kỷ niệm xưa ?!, Nữ: Tình xưa anh chôn sâu rồi ?!
Sao khơi dậy, gieo chi sầu thêm nữa, Nam: Ngày anh về Cần Thơ … Nữ: tưởng chung đôi ai ngờ chia phôi!
Anh đã có gia đình chỉ mỗi tôi là đơn côi, Nam: Hai vé anh mời …. Nữ: phải chi là tờ … kết hôn … ngày … xưa!
VỌNG CỔ
5.Nữ: Tình đẹp trinh nguyên! dẫu chia phôi nhưng mỗi người đã yên bề gia thất, thì xin hãy cất cho nhau những kỷ niệm đẹp trong … đời. Tôi nào dám đâu phụ hai vé anh mời. Nam: Không thấy tới để ghế mời bỏ trống, tôi chỉ biết trách mình chớ nào nỡ trách ai. Nữ: Gặp lại nhau tuy không muốn nhắc chi chuyện cũ, nhưng tự trong sâu thẳm tâm hồn vẫn trân trọng mối tình xưa. Nam: Anh đâu hay ngày bài thơ vừa bốn mươi tuổi thì áo tím ra đi, đi biền biệt không về!
VĨ KHÚC TRĂNG THU
Nữ: Tình xưa mấy mươi năm rồi,
Tình người trai ngoại đạo, Nam: Tình không nhuốm bụi phong trần,
Người đời bao lần suy ngẫm, Nữ: Mối tình được chép bằng thơ,
tinh khiết, ngây thơ.
(Về lại vọng cổ)
6.Nam: Kính bậc tiền nhân và người đã khuất, để lại nhân gian tình ý thơ này. Nữ: "Lạy Chúa con là người ngoại đạo
Nhưng tin có Chúa ở trên cao Nam: Trong lòng còn giữ màu hoa trắng Nam-Nữ: Cứu rỗi linh hồn con, Chúa ơi !"