Người ta có thể nói rằng trong giới cải lương và những người yêu thích bộ môn nghệ thuật sân khấu thời thập niên 1950-1960 nếu không thấy mặt ông Trần Tấn Quốc thì cũng nghe danh cái bút hiệu Thanh Tâm của ông. Do bởi chữ “Thanh Tâm” được đặt tên cho một giải thưởng hằng năm của bộ môn sân khấu cải lương.
Năm 1950 khi vừa làm chủ nhiệm tờ báo Tiếng Dội thì ông Trần Tấn Quốc liền mở ngay “Trang Kịch Trường” nói về hoạt động cải lương, để rồi về sau rất nhiều tờ báo cũng theo chân mở trang kịch trường với đường lối gần giống như ông chủ trương.
Trước khi nói về hoạt động cùng thành tích đạt được của trang kịch trường trên báo Tiếng Dội, tôi sơ lược qua về tiểu sử ông Quốc, cũng như cơ duyên nào đưa đẩy ông vào nghiệp báo chí để rồi suốt cuộc đời dấn thân vào trong cái nhục vinh của “nghiệp báo” này.
Ông Trần Tấn Quốc sinh năm 1914 tại Cao Lãnh, học thi đậu bằng Sơ Học (Certificat d'Etudes Primaires). Theo lời ông kể thì ông yêu thích nghề làm báo từ lúc còn ngồi ghế nhà trường. Hai nhà báo mà ông ngưỡng mộ nhứt là: Nhà cách mạng Nguyễn An Ninh, và ông Diệp Văn Kỳ chủ bút tờ nhựt báo Thần Chung.
Ông Diệp Văn Kỳ là người Huế, thân mẫu là một bà công chúa em gái Vua Thành Thái. Từng du học bên Pháp đậu bằng Cử Nhân Luật, ông Kỳ về nước không chen chân vào đường quan lộ mà chọn nghề làm báo. Là người miền Trung nhưng ông lại lọt vào “hũ nếp” ở Ðồng Bằng Sông Cửu Long (vợ ông Kỳ là bà Lê Thị Hạnh, con của một đại điền chủ giàu có số một ở Cao Lãnh).
Lúc ông Quốc đang học ở trường tiểu học Cao Lãnh thì ông Diệp Văn Kỳ nhân dịp về thăm quê vợ có đến thăm trường ông. Trước khi ra về, ông Diệp Văn Kỳ nói thẳng đám học sinh:
- Các em ráng học, để sau này giúp ích cho nước nhà. Chắc thầy các em đã nói cho các em biết tôi là ai hỉ? Có người lại bảo, tại sao tôi không ra làm quan? Nhưng làm quan để mà chi? Khi ta chỉ sung sướng một mình còn bao nhiêu đồng bào ta cực khổ, thì làm quan có ích gì? Tuy nhiên, về sau muốn làm nghề gì, thì lúc còn nhỏ cũng phải ráng học cái đã. Vậy tôi khuyên các em ráng học.
Ông Quốc kể lại: “Lời khuyên bảo của ông Kỳ thật là ngàn vàng, nhưng thay vì đây càng ráng học để sau này giúp ích cho nước nhà như lời ông khuyên bảo, thì bắt đầu từ đó, tôi muốn làm báo! Ðể làm gì? Thật ra tôi chưa biết làm báo để làm gì, điều chắc chắn làm báo để thành ông chủ bút, như ông chủ bút Diệp Văn Kỳ.”
Năm 1930 ở Cao Lãnh có phong trào người dân biểu tình chống nhà cầm quyền thuộc địa Pháp. Ông Quốc mới 17 tuổi tham gia biểu tình bị bắt kêu án 5 năm đày đi Côn Ðảo, vì tội “hoạt động phá hoại chống nhà nước”. Thọ án 4 năm thì được “phóng thích có điều kiện” về quê nhà ở Cao Lãnh, mỗi tuần phải đi trình diện chính quyền sở tại.
Một hôm thừa dịp con nước ròng, tối trời, mẹ và em ông Quốc âm thầm bơi xuồng xuôi dòng sông Cửu Long xuống Sa Ðéc, đưa ông lên chiếc xe đò sớm nhứt đi Sài Gòn. Lần ra đi này ông Quốc gọi là “bỏ xứ đi làm báo”.
Những bước chân đầu tiên đặt lên vùng đất lạ Sài Gòn, thủ phủ của xứ Nam kỳ nên ông Quốc không sao tránh khỏi những bỡ ngỡ trước cuộc đời mới. Mộng làm báo vẫn đeo đẳng bên mình. Ðứng trước thực tế vô vàn khó khăn không giống như những điều mơ ước của cậu học trò năm xưa, khiến ông phải nhiều suy nghĩ để quyết tìm cho mình một chí hướng.
Nhắc lại những ngày dấn thân ấy, ông kể tiếp:
- Lúc còn đi học, mình tha thiết nghề viết báo bao nhiêu, giờ đây đứng trước thực tế, thấy khó gia nhập làng báo bấy nhiêu. Viết báo chẳng những giỏi Việt văn mà còn phải có một số vốn liếng Pháp văn ở mức nào đó, dầu là một phóng viên đi lượm tin nơi các nhà thương và cò bót. Một anh phóng viên cầm cuốn sổ tay đến bót cảnh sát, thì từ anh Biện đến ông Cò, là những người có quyền cho tin nhà báo, đều là người Pháp; vào nhà thương thì gặp bác sĩ người Pháp, mà dầu bác sĩ người Việt, họ cũng nói tiếng Pháp. Lên tòa án từ ông chánh án đến công tố viện và luật sư đều dùng tiếng Pháp trong việc hỏi cung, buộc tội và biện hộ.
Vấn đề mộng và thực đã đặt ra trước mắt tôi. Lúc ở trường, mình viết bài gởi đến báo đăng chơi, hoặc tạo cho mình một cái bút hiệu để “làm tàng với chúng bạn”, bây giờ viết bài đem bán cho nhà báo để lấy tiền sống lại là việc khác.
Lúc bơ vơ giữa chợ đời với muôn nẻo sáng, tối thì may quá, tôi gặp một giáo sư tư thục, thương tình cám cảnh dẫn về ở với ông, vừa nuôi ăn, vừa cho theo ông vào lớp để học ké với nhóm học sinh có đóng học phí hẳn hòi. Ðó là giáo sư sống độc thân chuyên dạy Pháp văn mà tên Ðinh Nho Hàng của ông đã khắc sâu vào tâm khảm tôi từ đó.
Theo ăn ở và học với ông Ðinh Nho Hàng hơn một năm, thầy trò rất tương đắc, một hôm có việc riêng ông đi tỉnh.
Ở nhà buồn quá, tôi ra bồn binh Sài Gòn ngồi trên băng đá nghĩ chuyện đời và đếm từng chiếc sẽ hơi chạy qua cho đến khuya. Bỗng có hai người đàn ông tuy còn nhỏ tuổi mà nét phong trần lộ lên khuôn mặt có vẻ dạn dày, với bộ điệu nhanh nhẹn, xề xuống ngồi chung một băng đá với tôi và bắt đầu nói một “thứ tiếng” lạ tai khó hiểu.
Một người nói:
- Khứa tứ bị cội múm.
Người thứ hai chắt lưỡi và mặt đượm ngay nét buồn. Ðoạn người này ngó tôi nói với người nọ:
- Coi khứa ni là khứa ăn bay hay khứa 77?
Người nọ liếc tôi, rồi nói với người kia:
- Hừ, khứa nhủ.
Sáng hôm sau, tôi đem chuyện này thuật lại với một ông cảnh sát truy tầm (Agent de recherche) ở gần nhà giáo sư Ðinh Nho Hàng để nhờ ông giải thích.
Ông ta cười ha hả mà nói:
- Chú em gặp mấy thằng “ăn hồ” rồi!
- Nữa, “ăn hồ” là gì?
- Là bọn móc túi. Những tiếng “khứa tứ”, “cội múm”, “khứa nhủ” là tiếng lóng của đám móc túi. Như “khứa” có nghĩa là thằng, hay anh, “khứa tứ” là anh tư, “khứa nhủ” là thằng nhỏ, “cội” là lính, “khứa 77” là lính kín, “múm” là bắt, “ăn bay” là ăn cắp vặt, “ăn hồ” là móc túi, v.v...
Thằng này nói với thằng kia “khứa tứ bị cội múm” có nghĩa là thằng này báo tin cho thằng kia hay “Anh Tư đã bị lính bắt”. Sau khi được ông cảnh sát truy tầm giải thích những tiếng lóng của bọn móc túi, một ý nghĩ nảy sanh trong đầu óc tôi: Viết một phóng sự về bọn móc túi ở Sài Gòn.
Qua một cuộc vận động và năn nỉ và cũng nhờ ông cảnh sát truy tầm sẵn lòng thương. Kế đó được thầy tôi cho phép, tôi bèn theo bén chân ông cảnh sát trong công tác bài trừ bọn móc túi. Như vậy, trong gần ba tháng, tôi được biết những ổ của bọn bất lương, biết rõ từ cách tổ chức đến hoạt động, từ những tiếng lóng đến mánh lớn “làm ăn” của bọn móc túi Sài Gòn.
Nghe tôi thuật chuyện, giáo sư Hàng bảo:
- Anh viết phóng sự đi: Ðó là cách mở ngõ cho anh vào làng báo.
Tôi cắm đầu viết thiên phóng sự “Những hoạt động và mánh lới của bọn móc túi Sài Gòn” rồi tự mang đến bán cho ông Nguyễn Phan Long, chủ nhiệm nhựt báo Việt Nam.
Với tác phẩm đầu tay nầy, tôi được trả bút phí 20 đồng, nhưng nỗi vui mừng lớn nhứt của tôi là sau khi đăng dứt thiên phóng sự vừa nói trên (đăng mỗi ngày và trên một tuần) tôi liền được ông chủ nhiệm nhựt báo Việt Nam cho tôi một chân phóng viên của báo này với số lương tháng 30 đồng và chánh thức gia nhập đội ngũ báo chí Sài Gòn từ tháng 6 năm 1936.