NS Huỳnh Anh sinh năm 1932 ở Cần Thơ, con của NS Sáu Tửng một danh thủ đờn kìm của nhạc cải lương miền Nam. Những năm thơ ấu, NS Huỳnh Anh đã được nuôi dưỡng trong không khí nghệ thuật của gia đình và trong sự thanh bình trù phú của đồng quê miền Nam, một miền Nam giàu có với những tay công tử xài tiền như nước mà điển hình là hai tay công tử Hắc Bạch (Ba Qui và Phước Georges) đốt tiền cho đời biết mình là bảnh.
Giai thoại kể lại rằng NS Hùynh Anh chưa bao giờ chính thức được theo học nhạc về bất cứ nhạc cụ nào cũng như về lý thuyết và sáng tác. Khi còn nhỏ trong một buổi tập dượt văn nghệ học đường trình diễn trước khi chia tay nhau bãi trường mùa hè, tay trống của ban nhạc hôm ấy đã bị bệnh không thể tập dợt được, ông thầy hướng dẫn văn nghệ trong lúc cấp bách không biết sao, nhưng đã để ý một chú bé đứng xem tập dợt, nhưng không phải như những người đến xem khác, chú bé để tâm theo dõi tiếng đàn, giọng hát, hai tay gõ và chân nhịp rất đúng, nên ông thầy đã kêu chú bé vào chơi trống thử, và trước sự ngạc nhiên của mọi người, chú bé chơi trống rất đúng, và như vậy chú bé trở thành tay trống chính thức cho buổi trình diễn. Chú bé đó là NS Huỳnh Anh sau này, nhưng khi đó mọi người chỉ gọi chú là Bé Ba.
Sau Thế Chiến Thứ 2, NS Huỳnh Anh chính thức bước vào con đường chơi nhạc với vai trò một tay trống trong một ban nhạc tại thành phố Đà Lạt năm 1947. Mười năm kế tới từ 1947 tới 1957, NS Huỳnh Anh lăn lộn trong con đường trình tấu, khi thì chơi trong các đoàn cải lương, khi thì chơi trong các phòng trà ca nhạc với các ban nhạc Phi Luật Tân. Các nghệ sĩ Phi Luật Tân khi xuất dương thường có trình độ trình tấu khá cao, do đó NS Huỳnh Anh với khả năng thiên phú đã học hỏi được ở họ các ngón nghề độc đáo khi chơi chung, dù không bao giờ được họ chính thức chỉ dẫn, và chẳng mấy chốc anh sử dụng thành thạo nhiều nhạc khí khác như Guitar, Piano, Kèn, Percussion v.v... cũng như kỹ thuật hòa âm sống động, vững vàng về nhịp điệu của các ban nhạc vũ trường. Năm 1957, Huỳnh Anh trở thành trưởng ban nhạc và trong 18 năm tới, anh đã có hợp đồng trình diễn với hầu hết các phòng trà ca nhạc và vũ trường của Sài Gòn cho đến năm 1975.
Đầu thập niên 50, tên tuổi của tay trống Huỳnh Anh đã lẫy lừng khắp các vũ trường Sài Gòn. Trong thời gian này Sài Gòn có hai tay trống lừng lẫy là Huỳnh Anh và Huỳnh Hiếu (hay Huỳnh Háo) và sau này có thêm tay trống nổi danh thứ ba là Phùng Trọng. Khi được hỏi và so sánh về tay nghề với tay trống Huỳnh Hiếu, NS Huỳnh Anh nói một cách thành thật: "Hồi đó mình nghèo mà, làm sao sánh được với Huỳnh Hiếu là con ông bầu gánh Tư Chơi, có tiền mướn thầy Phi Luật Tân về học". Nhưng theo tay trống Lưu Bình của ban nhạc The Wave của Montréal, trước kia đã được cả hai tay trống Huỳnh Anh và Huỳnh Hiếu chỉ dẫn, nói rằng: "Theo tôi, không thể nào so sánh tài nghệ chơi trống giữa Huỳnh Anh và Huỳnh Hiếu rồi nói rằng ai chơi hay hơn ai, vì mỗi người một sở trường. Không ai có thể qua mặt được khi Huỳnh Anh chơi trống trong ban nhạc vũ trường (combo), trong khi đó Huỳnh Hiếu rất xuất sắc trong khi chơi trống theo thể loại Big Band của các ban nhạc Jazz Mỹ như Duke Ellington, Glenn Miller, Benny Goodman".
Ngày đưa NS Huỳnh Anh ra phi trường Dorval để đón chuyến bay buổi chiều về Mỹ, chúng tôi có thì giờ đến chỗ hẹn ăn trưa để anh gặp sọan giả cải lương Nguyễn Phương, người đã viết tuồng cho đoàn Thanh Minh - Thanh Nga trong một thời gian dài. Anh gọi soạn giả Nguyễn Phương bằng chú, vì anh gọi theo Thanh Nga, thời kỳ anh thường đến đoàn hát thăm viếng nàng. Sọan giả Nguyễn Phương nhắc đến một thành tích lẫy lừng của tay trống Huỳnh Anh, mà có lẽ anh cũng không chú tâm đến nhiều vì không mấy khi nghe anh nhắc đến, đó là cuộc "đọ trống" giữa tay trống số một của Mỹ thời bấy giờ là Buddy Rich và tay trống Huỳnh Anh của Việt Nam tại rạp Hưng Đạo vào năm 1961. Sọan giả Nguyễn Phương cho đây là một biến cố quan trọng của nền âm nhạc Việt Nam
NS Huỳnh Anh được tiếng hào hoa, tên tuổi của anh dính liền với tên tuổi của những nữ nghệ sĩ như nữ ca sĩ P. V., nữ nghệ sĩ sân khấu cải lương T. N. , người đẹp L. H., Đ. cũng như với các vũ nữ xinh đẹp của Sài Gòn ban đêm. Anh di tản cuối tháng 4/75 và cư ngụ tại Vùng Vịnh, thành phố San Francisco. Qua Mỹ, anh chạy taxi để độ nhật, nhưng anh không bao giờ không giữ đúng phong độ giang hồ, biết anh biết em, khiêm nhượng, và lúc nào cũng có ly rượu trên tay, và nụ cười hào sảng trên môi. Anh không tự kiêu những lúc lẫy lừng, nên anh cũng không tự ti trong lúc vô danh tiểu tốt. Trong hơi rượu cay, anh đã đạt tới mức "thiền" hơn nhiều người cả đời tu tập.
Nhưng tất cả những công trình trên của anh sẽ chìm vào quên lãng, và cho tới thời điểm hiện tại (năm 2004), không còn ai nhớ tới tên của anh nếu anh không đi vào con đường sáng tác. Sáng tác là đỉnh cao nhất của các bộ môn nghệ thuật trong đó bao gồm văn chương, thi ca, âm nhạc, hội họa, điêu khắc, kịch nghệ, điện ảnh. NS Huỳnh Anh đã khiêm nhường tuyên bố trong đêm họp mặt tại "Nhược Gia Trang", anh rất được hân hạnh được xếp chung vào hàng ngũ những nhạc sĩ sáng tác, anh cảm thấy không thể so sánh với các nhạc sĩ có mặt hôm đó như Nguyễn Hiền, Phạm Mạnh Cương, Lê Dinh với những công trình sáng tác đồ sộ của họ, trong khi anh chỉ có hơn vỏn vẹn 20 bài nhạc mà thôi. Thật ra anh không cần phải cảm thấy như vậy, vì nhiều nhạc sĩ chỉ cần có một bài thành công là được người thưởng ngọan nhớ đời, trong số hơn 20 bài của anh, sau gần 50 năm vẫn có nhiều bài được nhớ tới. Sự thành công của anh có lẽ là do các tác phẩm đó phản ảnh được tâm tư của một thời đã qua mà không mất đi tính cảm hằng hữu của con người.
Một trong những bài đầu tiên anh sang tác là bản "Em Gắng Chờ" ra đời vào cuối thập niên 50 đầu 60 đã được nữ ca sĩ Lệ Thanh hát trong đêm "Nhược Gia Trang", vì chị nhớ bài này từ thời còn đi hát ở Mỹ Phụng:
Trên bến chia ly một chiều, em tiễn đưa anh nghẹn ngào
Nhìn nhau bâng khuâng nao nao... ôi buồn sao
Xa lũy tre xanh dịu hiền, xa chốn quê hương mặn nồng
Vai súng hiên ngang hẹn cùng... người cũ...
Em gắng mong anh ngày về, thêm ánh vinh quang tràn trề
Nhìn qua quê hương thân yêu đang lầm than
Bông lúa tươi trên ruộng đồng, thanh thót tiếng ca dịu lòng
Xen với tiếng tiêu mục đồng... lướt êm...
Bài hát đầy tình cảm này thật ra là lời một người con gái giã từ người yêu, dặn dò người yêu cứ ra đi bảo vệ quê hương, em sẽ chờ, có nghĩa đây là một bài hát dân vận. Điểm này được nêu ra ở đây vì mọi người cho rằng những bài nhạc tuyên truyền thường nhàm chán, bài hát này và nhiều ca khúc khác của những tác giả miền Nam được viết ra với nhu cầu tuyên truyền, nhưng những cảm xúc chân thành của tác giả đã làm bài hát trở nên bất tử. Những năm cuối thập niên 50 sắp bước qua thập niên 60 của thế kỷ 20, người dân miền Nam được hưởng một thời gian thái bình và thịnh vượng nhất trong lịch sử ngắn ngủi nhưng ghi đậm nét trong tâm tư của mọi người. Lẽ dĩ nhiên tại thời điểm đó, không ai biết trước thời gian sắp tới sẽ có những trận chiến tàn khốc kéo dài suốt 15 năm, và sau đó khi miền Nam mất đi năm 1975 là một cuộc ra đi tìm tự do của hàng triệu người bất chấp hiểm nguy vượt thoát trên biển làm rúng động lương tâm nhân loại. Bốn mươi năm sau khi nhìn lại, không ai không nhìn nhận đó là thời gian vàng son nhất cho công cuộc phát triển những bộ môn nghệ thuật như văn chương, âm nhạc, kịch nghệ, cải lương, điện ảnh v.v...
Đề tài tan hợp của tình yêu là đề tài muôn thuở mà tác giả nào cũng đã từng viết qua, nhưng điểm đặc thù của NS Huỳnh Anh là luôn luôn mang những cơn mưa buồn vào những cuộc tình ngang trái:
Mưa buồn ơi thôi ngừng tiếng
Mưa cho phố nhỏ càng buồn thêm
Mưa rơi gác xưa thêm lạnh vắng
Phòng côi lắng tiêu điều
Đường khuya vắng dìu hiu
(Huỳnh Anh - Lạnh trọn đêm mưa)
Mưa khuya buồn lê thê
Đìu hiu giăng khắp lối về.
Còn ai đếm bước âm thầm
Tìm trong ngõ vắng cô liêu
Giữa đêm tàn lạnh giá
Mơ bóng bao ngày qua
Một ngày nên duyên mới
Duyên kiếp dễ nào pha
(Huỳnh Anh - Nếu ta đừng quen nhau)
Anh còn có tài phổ nhạc vào thơ. Bài "Gửi Về Bên Ấy" là một bài thơ về Hà Nội, của nhà thơ Trần Quốc Lịch, và tuy Huỳnh Anh chưa bao giờ đặt chân đến Hà Thành, nhưng phần nhạc phổ vào, quyện với lời thơ lãng mạn làm thành một bài hát thật hay, nhưng đáng tiếc là ra đời quá trễ khi miền Nam gần mất, nên không được phổ biến rộng rãi:
Gió thu về mặt Hồ Gươm gợn sóng Nhìn liễu xanh Em có thấy xôn xao Vẫn vầng trăng của mười mấy năm nào Em có thấy dáng Anh buồn trong gió. Đường Ngọc Hà còn người lên Bách Thảo Cầu Long Biên xe ngựa có còn qua Đê Yên Phụ im lìm bên Bác Cổ Đường Cổ Ngư còn lộng gió Hồ Tây Rồi Đông sang Em có còn đan áo Gửi cho Anh như thuở mới yêu nhau Và giấc mơ làm chú rể cô dâu Còn ấp ủ hay trở thành thiếu phụ. Chớm Đông về, Hà Nội loang mây xám Đưa bước khuya lạc lõng giữa đêm hoang Nghe đêm nay khi tiếng gió sang mùa. Bao thương nhớ, nhớ thương về bên Em. (Nhạc: Hùynh Anh, Lời: Trần Quốc Lịch - Gửi về bên ấy). Nhà thơ lãng mạn Trần Quốc Lịch chẳng ai xa lạ, chính là người hùng Nhảy Dù nổi tiếng trong trận mạc khắp bốn vùng chiến thuật, sau này lên tới chức Chuẩn Tướng chỉ huy một Sư Đoàn Bộ Binh. Nhưng anh hùng cũng không qua nổi ải mỹ nhân, anh bị tiêu tan sự nghiệp vì một người đẹp tên Th. Tr. Người viết còn nhớ ngày gặp anh tại Hội Quán Phượng Hoàng ở Pleiku vào Mùa Hè Đỏ Lửa, khi ấy anh còn là Đại Tá Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn II Dù. Lữ Đoàn của anh bị xé nhỏ thành các Tiểu Đoàn để đưa lên trấn giữ các ngọn đồi không tên ở Dakto, ngăn cản đường tiến của Bắc quân với quân số đông gấp bội. Quả nhiên Bắc quân đã dùng chiến thuật biển người, cường tập những vị trí phòng thủ của quân Dù, và sau đó tràn ngập mục tiêu. Một vài dòng để nhớ lại những ngày tháng lang bạt cũ! Bản nhạc sau chót được nhắc ở đây là một thành công lớn nhất của NS Huỳnh Anh. Anh phổ nhạc cho bài "Rừng Lá Thay Chưa" của Thi Sĩ Hoàng Ngọc Ẩn: Anh đi rừng chưa thay lá Anh về rừng lá thay chưa Phố cũ, bây chừ xa lạ Hắt hiu, đợi gió giao mùa Xuân xưa, mình chung đôi bóng Xuân này, mình ngóng trông nhau Cuốn hút, phương trời vô vọng Nhớ thương bạc trắng mái đầu Em, có về qua lối cũ Phố phường, chừ đã đổi thay Thương em, nửa đời hoang phế Thương ta, chịu kiếp lưu đày Xuân nay, mình em lẻ bóng Có còn, tiếc nhớ xuân xưa Dài tay, đếm từng nhung nhớ Em ơi. chờ gió giao mùa (Nhạc: Hùynh Anh, Lời: Hòang Ngọc Ẩn - Rừng lá thay chưa) NS Huỳnh Anh đã tài tình khi chỉ dùng cấu trúc giản dị AABA (A là phiên khúc, B là điệp khúc). phần phiên khúc A tiết điệu nhịp nhàng được lập lại hai lần để sửa soạn cho phần điệp khúc B vút lên cao và kéo dài trường độ trước khi rơi xuống như trong bài vọng cổ xuống "xề" bật đèn màu, sau đó trở lại phiên khúc A với tiết điệu nhịp nhàng khi trở về chủ âm gây cảm giác thư thái cho người nghe. Nhạc trong bài này quyện với lời, và nhấn mạnh ở "điểm móc" với hai câu: Thương em nửa đời hoang phế Thương ta chịu kiếp lưu đầy. Ai đã từng đi chinh chiến, trấn đóng nơi rừng sâu núi thẳm, giăng võng nằm nghe mưa rơi, nhớ tới người vợ hiền ở nhà, mới thấy hai câu thơ này thấm thía thế nào... Bài viết này được viết để kỷ niệm duyên gặp gỡ tuy ngắn ngủi nhưng đồng điệu giang hồ nên trở thành gắn bó để gửi tới NS Huỳnh Anh, "gã giang hồ" trong âm nhạc.(SUU TAM)