THEO YÊU CẦU CỦA NHIỀU BẠN ĐỌC CŨNG NHƯ TRONG GIỚI, CHÚNG TÔI MỞ LẠI CHUYÊN TRANG "NGHỆ THỤAT CA VỌNG CỔ", GIỚI THIỆU GIỌNG CA CỦA MỘT SỐ NGHỆ SĨ, NGHỆ NHÂN VÀ NHỮNG GIỌNG CA TRẺ ĐÃ TỪNG ĐOẠT GIẢI QUA NHỮNG KỲ THI.
CHUYÊN TRANG NÀY, KHÔNG CHỈ BÀI VIẾT CỦA PHÓNG VIÊN BÁO SKTP, MÀ CÁC BẠN CỘNG TÁC VIÊN, BẠN ĐỌC, NHÀN GHIÊN CỨU CHUYÊN MÔN ĐỀU CÓ THỂ THAM GIA CỘNG TÁC, NHẰM GÓP PHẦN CHO CHUYÊN TRANG PHONG PHÚ HƠN. TỪ ĐÓ, GIỚI THIỆU NÉT HAY RIÊNG, ĐẶC THÙ CỦA TỪNG GIỌNG CA VÀ KHẲNG ĐỊNG GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT CỦA BÀI VỌNG CỔ QUA PHONG CÁCH BIỂU ĐẠT TỪNG LÀN HƠI CHẤT GIỌNG.
BÀI VIẾT NÀY, CHÚNG TÔI XIN GIỚI THIỆU MỘT NỮ GIỌNG KIM ĐƯỢC ĐỊNH HÌNH VÀ CÓ THỂ XEM LÀ GIỌNG MẪU, ĐÓ LÀ NSUT THANH KIM HUỆ.
NSUT Thanh Kim Huệ là một trong những cô đào trẻ nhất của SKCL trước năm 1975 ở lò Kim Chung; và nói cách nào đó, dường như cha mẹ sinh ra chị và thiên phú cho chị làn hơi chất giọng là để ca ngâm thì phải. thêm vào đó là hơi giọng sẳn có, chị lại còn tạo cho mình phong cách ca ngâm riêng, mà không bị ảnh hưởng bất cứa nghệ sĩ tài danh nào trước đó.
Hồi còn ở sân khấu Kim Chung, ngay từ lúc đầu NSUT Thanh Kim Huệ đã gây chú ý với nhiều nghệ sĩ đi trước, và họ đã có những nhận định về chị: " Hơi - giọng cô này lạ và hay quá, sau này dễ thành danh lắm!". Quả thật như vậy, sau đó không lâu, NSUT Thanh Kim Huệ đã nổi tiếng với khá nhiều bài Vọng cổ và Tân cổ giao duyên trên Đài phát thanh Sài Gòn và hãng băng cassette. Bài Tân cổ giao duyên mở đầu cho hơi - giọng lạ của Thanh Kim Huệ vào đầu thập niên 70 của thế kỷ trước là bài Yêu lầm, kế đó là Chuyện tình Lan và Điệp, chị ca với NS Chí Tâm.
Hai bài này đã đưa NSUT Thanh Kim Huệ lên hàng ngôi sao trẻ của thời đó. Bên cạnh đó, chị cũng có những vai diễn cũng nổi bật nhờ giọng ca như Thủy Cúc trong Đường gươm Nguyên Bá, Lan trong Lan và Điệp... Trong giai đoạn này, hơi - giọng của NSUT Thanh Kim Huệ đã trở thành một điểm sáng trên SKCL; một hơi - giọng Kim mới lạ, cùng với kỹ thậut xử lý thanh đới có sắc thái riêng.
NSUT Thanh Kim Huệ, khi cất giọng ca là người ta có thể nhận ra ngay, dù không nhìn thấy mặt chị. Hơi - giọng trong trẻo, âm lực đầy đặn là tố chất sẳn có của cơ thể sinh học. Trên cơ sở sẳn có đó, nhờ rèn luyện, chăm chút câu ca, khuôn nhịp, xửa lý hơi - giọng đúng chỗ (ngân nga, nhấn nhá, luyến láy, lạng lách...) để tạo thành nét riêng; là phong cách ca ngâm của NSUT Thanh Kim Huệ.
Chị vốn có giọng Kim tự nhiên đã hay rồi, lại thêm xử lý kỹ thuật buông hơi, phát âm chuẩn xác nên tiếng ca trở nên bay bổng hơn. Có thể thấy nét chấm phá đó, là chị xử lý thanh điệu các dấu, đặc biệt sở trường sắc và hỏi ở bài Vọng cổ càng tuyệt vời: dấu sắc thì chị ém hơi bụng (phổi) nhần âm tiết trong ca từ có dấu sắc rồi buông hơi sâu để ngân hoặc luyến lên; và trong lúc luyến chị buông hơi hai, ba lượt để ngân tưởng chừng như lạng qua, lách lại, vừa duyên dáng vừa mượt mà trữ tình... Còn dấu hỏi thì chị khép môi, ngân trong cổ khi nhấn âm tiết dấu hỏi, rồi thả âm lực sau từ từ, thấp đến cao, rồi lại ngậm miệng ngân hơi cổ nữa nên âm thanh cao vút lên, thánh thoát nghe như tiếng gió...
"Bước vào đường yêu một lần lầm lỡ, khi hiểu ra thì sầu hận đến muôn...đời.". Ngay khi vô vọng cổ chị đã nhấn chữ "bước", rồi "lỡ", đến chữ "đến" chị ngân dài hơn rồi xuống "hò" Vọng cổ chữ "đời" một cách ngọt lịm.
NSUT Thanh Kim Huệ càng khẳng địng tài năng mình hơn từ sau ngày Giải phóng (1975), kỹ thuật xử lý hơi - giọng của chị gầnn hư khuôn mẫu với 4 kỹ năng: Luyến láy, lạng lách, ngân nga, nhấn nhá trở thành một danh ca có phomng cách riêng. Những bài Tân cổ giao duyên, Vọng cổ để đời như Cây sáo trúc, Cô gái tưới đậu của Trần Nam Dân (ca chung với NSUT Thanh Tuấn), Tát nước đêm trăng của Châu Thanh (ca chung với NS Hoài Thanh), Chợ mới của Trọng Nguyễn (ca chung với NSUT Trọng Hữu)... là những bài ca vượt thời gian và hơi - giọng của NSUT Thanh Kim Huệ đã in dấu ấn riêng của mình vào đó theo năm tháng.
Kỹ thuật ca nói và nói trong ca, mặc dù là tự sự nhưng chị vẫn không quên nhấn những trọng âm ca từ khi âm tiết mang dấu sắc và hỏi rồi đưa hơi; và khi ngân ở những ca từ tự sự thì chị tiết tế trường độ ngân vừa phải nên âm giọng luôn biểu đạt sắc thái trữ tình. Khi dứt câu 1 (dấu sắc hoặc hỏi) thì chị mở tốc lực hơi đầy đặn để ngân, tiếng ca cứ thanh thoát triền miên như dặt dìu theo tiếng gió... Còn khi dứt câu 2 (thanh ngang) thì chị ngân ngang nhịp đầu sau đó cất lên như ca cấn rất ấn tượng.
Trong bài " Cây sáo trúc" thời đó, chị đã in sâu vào lòng khán - thính giả mộ điệu: "...Chị hai em là gái chính chuyên, nghe tiếng sáo của anh mà má hồng ửng đỏ...". Hai dấu hỏi kề bên nhau trong "ửng, đỏ" nhưng kỹ thuật chị nhấn nhá khác nhau: "ửng" chị buông hơi nhẹ hạ giọng thấp và luyến hơi lên; "đỏ" thì nhấn mạnh trong âm lực rồi rồi chất giọng như lạng qua "đỏ...ỏ...ơ...". Còn trong "Cô gái tưới đậu"thì chị sử dụng phong cách tự sự ca nói nhiều hơn, nhưng đến những ca từ trữ tình thì chị biểu đạt rất tinh tế, và hầu như thanh điệu nào chị cũng có thể xử lí kỹ thuật luyến láy: "...Đánh xong Mỹ cút Ngụy nhào vàng mơ ruộng lúa hoa màu vượt lên, mầm hạnh phúc mọc ở quê em, thay trời đổi đất cho trọn niềm ước mơ.".
Bài "Chợ Mới", NSUT Thanh Kim Huệ có vẻ hưng phấn hơn, chất giọng giàn trãi dịu êm, ngọt ngào, luyến các dấu sắc bay bổng lên: "Mấy hôm sao mới hay tin anh đi bộ đội, em chạy xuống Long Xuyên rồi lên Châu Đốc. Nhìn những chỗ tuyển quân xác pháo còn rải rác mà bóngngười thương chẳng biết đâu tìm". Kỹ thuật luyến láy của chị cũng theo cao độ của tiết tấu từ thấp dần lên cao: "Đốc" khởi đầu thấp, luyến nhẹ, đến "xác pháo" ém một chút hơi cổ rồi ngân lên đến chữ "rác" và chữ "bóng" nhấn mạnh tạo âm nghe lảnh lót, rồi chữ "biết" ngân giọng gió xuống "hò" rất điệu nghệ...
Kỹ thuật ca Vọng cổ của NSUT Thanh Kim Huệ mấy mươi năm qua đã có ảnh hưởng không ít đến nhiều cô đào trẻ, kể cả giới Đờn Ca Tài tử. Tuy nhiên, mỗi người có thành công riêng, nhưng mỗi người chỉ đạt ở một trong 4 kỹ năng nói trên và tỉ lệ đạt cũng ở mức độ nhất định.
Đến nay, có thể quả quyết rằng giọng ca "vàng" của NSUT Thanh Kim Huệ là đại biểu nữ xuất sắc nhất về kỷ thuật xử lý hơi - giọng Kim mà lực lượng kế thừa chưa theo kịp.