Mộc Quán (1876-1953) tên thật là Nguyễn Trọng Quyền là một soạn giả lớn khai sinh dòng sân khấu cải lương tuồng Tàu, được suy tôn là Hậu tổ cải lương.
Tiểu sử
* Ông sinh năm 1876 tại làng Thạnh Hòa, xã Trung Nhứt, quận Thốt Nốt, tỉnh Long Xuyên (Quận Thốt Nốt,thành phố Cần Thơ ngày nay) là con của ông Nguyễn Văn Tường và bà Trương Thị Thạnh.
* Năm 1920, ông làm thư ký cho hãng rượu Phước Hiệp của ông Vương Thiệu. Vương Thiệu trước kia là một nghệ sĩ đoàn hát Tiều.Sau khi giải nghệ, ông kinh doanh nghề nấu rượu. Do đó trong các dịp văn nghệ của hãng rượu Phước Hiệp ông chủ Vương thường rước đoàn hát Tiều (những đồng nghiệp cũ của ông) về phục vụ cho công nhân xem.Từ đây, ông Quyền có dịp làm quen với những nghệ sĩ này vì ông giỏi chữ Nho, biết nói tiếng Tiều, tiếng Quảng. Ông bắt đầu học đàn cò và học hát Tiều với họ.
Trước sự ăn nên làm ra của các gánh hát thời đó như gánh Thầy Năm Tú, Nam Đồng Ban (Hai Cu, Mỹ Tho), ông Vương Có là con ông Vương Thiệu lập ra gánh Tập Ích Ban và mời ông Quyền làm thầy tuồng và sự nghiệp soạn giả của ông bắt đầu từ đó.
* Năm 1923: Ông bầu Phước Georges và Phùng Há mời ông về gánh Huỳnh Kỳ, ông viết 12 tuồng cho gánh Huỳnh Kỳ.
* Năm 1929: Ông về làm thầy tuồng cho gánh Hữu Thành của ông bầu Nguyễn Bá Phương ở Thốt Nốt, ông viết 5 tuồng cho gánh Hữu Thành.
* Năm 1935:ông Nguyễn Bữu ở Trà Vinh và Phùng Há lập gánh Phụng Hảo 3 và mời ông về cộng tác và ông viết 7 tuồng cho gánh Phụng Hảo 3.
* Năm 1937: Gánh Hữu Thành tái lập và gánh hát Kỳ Quan của ông Bầu Năm Hý ở Thốt Nốt thành lập. Hai ông bầu này đã mời ông Quyền về làm thầy tuồng cho cả hai gánh. Thời gian này ông viết 17 tuồng.
* Năm 1939: Ông làm thầy tuồng cho gánh hát Ngự Bình của ông Bầu Tư Thới, ông đã sáng tác 8 tuồng cho gánh Ngự Bình.
* Năm 1952:Ông Châu Văn Sáu còn gọi là Bầu Nhơn cùng Phùng Há lập gánh hát Phụng Hảo 4. Ông viết tuồng Luống cày rướm máu lấy bối cảnh của đất nước Nhật Bản. Tuồng đã hát được một tuần tại rạp Nguyễn Văn Hảo thì phải ngừng lại vì tin buồn đột ngột đến với gánh hát Phụng Hảo 4.
* Ngày 21 tháng 9 năm 1953, ông Quyền bị tai biến mạch máu não và ra đi vĩnh viễn tại bệnh viện Châu Đốc ngay hôm đó.
Sự nghiệp
* Trong 50 năm làm nghề soạn giả ông cho ra đời 85 vở tuồng cải lương và 3 truyện thơ. Các vở tuồng nổi tiếng của ông như:
o Châu trần kết nghĩa
o Tây Sương ký
o Thổ nhận oan ương
o Phụng nghi đình
o Mạnh Lệ Quân thoát hài
o San hậu
o Tái sanh duyên
o Vạn Huê lầu
o ...
* Ông là người khai sinh ra dòng nghệ thuật sân khấu tuồng Tàu. Ông đã viết lời Việt và sửa cách phát âm theo lối Việt của một số bản nhạc của sân khấu hát Tiều, hát Quảng để dùng trong tuồng Tàu do ông sáng tác. Các bài bản đó đến nay trở thành cổ nhạc Việt Nam tuy vẫn còn giữ cái tên của nhạc Tiều hay nhạc Quảng cũ như các bài:
o Ú Liu Ú Xáng
o Xang Xừ Líu
o Xáng Xáng Lìu
o Khốc Hoàng Thiên
o Xách Xủi
o Tân Xái Phỉ
o Bạc Cấm Lùn
o Dì Phạn
o Mành Bản
o …
Ông đã sử dụng lối hát ước lệ và tượng trưng của Hát Bội, rút kinh nghiệm của lối Hát Tiều và lối hát của Hý Khúc Trung Quốc(thời Nguyên) để biến chế thành một lối hát tuồng Tàu cho các nghệ sĩ Việt Nam.
* Ông còn là thầy trực tiếp chỉ dạy ca, dạy hát cho các nghệ sĩ cải lương lừng danh như Năm Châu, Phùng Há, Năm Phỉ, Ba Vân, Từ Anh, Bảy Nhiêu, Tư Út, Sáu Trâm, Ngọc Hải,Sáu Ngọc Sương, Tường Vi, Tư Thới, Thanh Tao…
Vinh danh
* Tên ông được đặt cho cuộc thi giọng ca cải lương:Từ năm 2001, Sở VH-TT Cần Thơ và Đài phát thanh - truyền hình Cần Thơ phối hợp với CLB Giám đốc trung tâm văn hóa các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long tổ chức cuộc thi giọng ca cải lương giải “Mộc Quán Nguyễn Trọng Quyền”.
* Các nghệ sĩ Năm Châu, Bảy Nhiêu, Năm Phỉ… mỗi khi nhắc đến ông Nguyễn Trọng Quyền đều hết lòng cung kính, gọi ông là minh sư. Các cô Phùng Há, Sáu Trâm, và Ngọc Hải là học trò và là dưỡng nữ của ông Quyền. Giới nghệ sĩ tiền phong và các nghệ sĩ tài danh các thập niên 1950, 1960, 1970 đều tôn vinh ông Quyền là Hậu Tổ của cải lương.
Ngày 11 và ngày 12 tháng 8 âm lịch hàng năm, năm nay nhằm ngày thứ sáu 21 và thứ bảy 22 tháng 9 là ngày giổ Tổ Hát Bội và Cải Lương. Các nghệ sĩ hát bội và cải lương ở trong nước hoặc ở hải ngoại đều có tổ chức lễ giổ Tổ Nghiệp, hoặc tập trung từng đoàn hát, ở nhà truyền thống nghệ sĩ hoặc riêng từng cá nhân tại nhà của mình nếu không có điều kiện tập trung
Nhân dịp nầy, Nguyễn Phương muốn nhắc lại ý kiến của cụ Vương Hồng Sển nói về những vị hậu tổ cải lương. Tôi nghĩ là nhân ngày giổ Tổ, nghệ sĩ chúng mình cũng cần biết qua công đức của các vị Hậu Tổ đã đóng góp trong việc xây dựng nền nghệ thuật sân khấu độc đáo của dân tộc.
Theo ông Vương Hồng Sển, nhà khảo cứu về sách cổ, đồ cổ, Cựu Giám đốc Bảo Tàng Viện Saigon và cũng là một học giả có nhiều bài viết về nghệ thuật hát bội và cải lương thì ông Nhạc Khị, người Bạc Liêu, nhạc sư, thân phụ của nhạc sư Ba Chột và cha vợ của nhạc sư Trịnh Thiên Tư đáng được tôn vinh là Hậu Tổ cải lương.
Về các soạn giả, những người đã khai sanh ra các lối diễn ca trên sân khấu và đào tạo nghệ sĩ, nhà học giả Vương Hồng Sển có kể đến tên các ông Mạnh Tự Trương Duy Toản, người sáng tác kịch bản đầu tiên cho gánh hát của ông André Thận và ông Châu Văn Tú, những gánh hát cải lương đầu tiên ở miền Nam (1918).
Sau đó ông Vương Hồng Sển kể đến các ông Mộc Quán Nguyễn Trọng Quyền, soạn giả của gánh hát Tập Ích Ban (1921); các ông soạn giả nguyên là thầy giáo của trường Tiểu học ở Sóc Trăng : Giáo Quyển, Giáo Chức và ông Tư Quốc soạn giả của gánh hát Tân Phước Nam của ông thầy thuốc Minh Sóc Trăng (1921 – 1922); ông Mười Giảng Nguyễn Công Mạnh, ông Lâm Hoài Nghĩa, Nguyễn Quốc Biểu, ông Phạm Công Bình, Châu Hồng Đào, Trần Quang Hiển, Lê Quang Hộ, Ngô Văn Nghị, Đoàn Quan Tấn (sinh viên trường Cao Đẳng Hà Nội, gốc miền Nam), ông Hồ Văn Trung (tức nhà văn Hồ Biểu Chánh), ông Lê Quang Liêm (đốc phủ Bảy), Nguyễn Chánh Sắt (nhà dịch thuật truyện Tàu rất nổi tiếng), ông Trần Chánh Chiếu…
Các ông kể trên đều là những soạn giả đã viết những tuồng cải lương trong các năm từ 1918 đến 1924. Đó là những nhà trí thức học giả, có ông là giáo sư trường Chasseloup Laubat Saigon, có ông làm tới chức Đốc Phủ Sứ, có ông vừa là công chức của Ty Soái Phủ vừa là nhà văn hữu danh.
Các ông soạn những tuồng lịch sử Việt Nam (Gia Long Tầu Quốc, Pháp Việt Nhứt Gia, Giọt Máu Chung Tình tức Võ Đông Sơ - Bạch Thu Hà…), tuồng xã hội (Tham Phú Phụ Bần, Tối Độc Phụ Nhơn Tâm…) tuồng Việt Nam xưa theo các tích truyện Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga, Thúy Kiều – Kim Trọng, Lâm Sanh Xuân Nương, Lưu Bình Dương Lễ… tuồng theo tích truyện Tàu : Phụng Nghi Đình, Châu Mãi Thần Ly Thê, Thái Sư Văn Trọng, Mổ Tim Tỷ Can, Thôi Tử Thí Tề Quân…
Cụ Vương Hồng Sển nhắc đến người soạn giả đầu tiên của cải lương : ông Mạnh Tự Trương Duy Toản. Sau đó mới tới ông Mộc Quán Nguyễn Trọng Quyền, nhưng theo lời của cô Phùng Há, nghệ sĩ kiêm soạn giả Năm Châu, soạn giả Lê Hoài Nở thì ông thầy tuồng có công đào tạo nhiều nghệ sĩ tài danh tiền phong như Năm Châu, Bảy Nhiêu, Tư Thới, Phùng Há, Ngọc Hải, Sáu Ngọc Sương, Ngọc Trâm, Kim Cúc… là ông Mộc Quán Nguyễn Trọng Quyền.
Anh Năm Châu, anh Bảy Nhiêu, cô Phùng Há khi nhắc tới ông Mộc Quán Nguyễn Trọng Quyền thường tỏ lòng tôn kính và xem như là cha nuôi của mình. Và cô Phùng Há thường nói : « Nếu nói đến Hậu Tổ Cải Lương thì bên nhạc đúng là ông Nhạc Khị, bên cải lương là ông Mộc Quán Nguyễn Trọng Quyền.»
Trong giới nghệ sĩ sân khấu cải lương có tập tục thờ Tổ nghiệp : không ai biết đích xác Ông Tổ ngành hát bội và cải lương là ông nào. Tổ nghiệp của nghề hát là danh xưng để gọi chung các bậc tiền bối đã dày công sáng lập nên sự nghiệp có liên quan đến nghệ thuật sân khấu : Tổ Sư, Thánh Sư, Tiên Sư, Tam Giáo đạo sư, Thập nhị công nghệ, Lão Lang đại thần, Tiền Hiền, Hậu Hiền…tức là những bậc nhân tài xuất chúng, những bậc thầy các ngành nhạc, mộc, dệt, múa, rèn, thuốc, hát ca, kể cả những đồng nghiệp quá cố.
Theo quan niệm đó thì các ông khởi đầu cho nghề soạn tuồng như ông Mộc Quán Nguyễn Trọng Quyền, ông Mạnh Tự Trương Duy Toản, Nhạc Sư Hai Khị đều được tôn vinh là Hậu Tổ cải lương, đó là để tưởng nhớ và ghi ơn bậc tiền bối đã khai sáng nghệ thuật cải lương.
Ông Nguyễn Trọng Quyền bút danh Mộc Quán, sinh năm Đinh Sửu (1876), tại làng Thạnh Hòa, xã Trung Nhứt, quận Thốt Nốt, tỉnh Long Xuyên (nay thuộc tỉnh Cần Thơ), con của ông Nguyễn Văn Tường và bà Trương Thị Thạnh.
Lúc nhỏ, ông học hết chương trình Tiểu học, rồi ở nhà học chữ Nho với cha và tự học thêm Pháp văn. Ông làm thư ký cho hãng rượu nếp hiệu Phước Hiệp do ông Vương Thiệu (Năm Tiệm) làm chủ. Ông Quyền rất giỏi tiếng Tiều. Ông Vương Thiệu nguyên là một nghệ sĩ đoàn hát Tiều giải nghệ để kinh doanh nghề nấu rượu nên trong những cuộc tiệc nội bộ của hãng rượu Phước Hiệp, ông Vương Thiệu rước đoàn hát Tiều về hát cho công nhân xem. Ông Nguyễn Trọng Quyền nhân các dịp đó, làm quen với các kép hát Tiều, học đờn cò và học hát.
Năm 1903, lúc ông được 27 tuổi, ông sáng tác thơ tuồng để dạy con cháu cách cư xử ở đời như thơ Thoại Bạch Viên (còn gọi là thơ Chệt Xuội), Trùng Ma Phụ Giám và Xử Hạnh Ca.
Năm 1916, ông Vương Có, con của chủ hãng rượu Phước Hiệp, nhân thấy nhiều chủ bầu các gánh hát ở Tiền Giang và Hậu Giang làm giàu mau lẹ nhờ gánh hát rất đông khách nên ông xin cha ông giúp vốn lập ra đoàn cải lương Tập Ích Ban. Ông Nguyễn Trọng Quyền, thơ ký của hãng rượu Phước Hiệp được mời làm thầy tuồng.
Gánh hát Tập Ích Ban (1921) được tổ chức rập khuôn theo một gánh hát Tiều, soạn giả Nguyễn Trọng Quyền lấy bút danh là Mộc Quán. Các nam nữ diễn viên đều được đặt cho nghệ danh theo tên người Hoa như nghệ sĩ Bảy Nhiêu thành tên Lâm Sinh, cô Sáu Trâm thành tên Ngọc Xoa, nghệ sĩ Tư Thới thành tên Dương Hòa, Hai Hiến thành tên Kiều Mị, Hai Hí thành tên Song Hỷ…
Suốt 7 năm làm thầy tuồng gánh hát Tập Ích Ban, ông Mộc Quán Nguyễn Trọng Quyền đã viết 27 tuồng dựa theo cốt truyện Tàu, dã sử Việt Nam và xã hội mà một số lớn các di cảo còn được nghệ sĩ Phùng Há gìn giữ như tuồng Châu Trần Tiết Nghĩa, Tây Sương Ký, Thố Nhận Oan Ương và tuồng Bội Phu Quả Báo, sáng tác phẩm của ông Phạm Công Bình năm 1923, được ông Mộc Quán Nguyễn Trọng Quyền nhuận sắc năm 1924, thêm bài ca Dạ Cổ Hoài Lang cho nghệ sĩ Phùng Há hát cho gánh hát Huỳnh Kỳ.
Nhờ có học hát Tiều và nghiên cứu lối hát Hí Khúc Trung Quốc, ông Mộc Quán Nguyễn Trọng Quyền đứng ra tập các tuồng Tàu của ông sáng tác, ông chỉ dạy cho các nghệ sĩ những lối múa theo tuồng Tàu, cách dâng rượu, múa thương, múa đao đến các nghi thức diễn các lớp vào triều, tư thế của tiểu thư, mệnh phụ hay các văn quan võ tướng. Lớp lang, điệu hát, điệu múa ăn khớp với lời ca, bài hát do ông soạn khiến cho các nghệ sĩ lãnh hội được một lối hát mới, thoát khỏi những gò bó khi còn trong thời kỳ Ca Ra Bộ.
Năm 1923, ông Nguyễn Trọng Quyền được ông Bầu Lê Phước Georges và nữ nghệ sĩ Phùng Há mời về làm thầy tuồng cho gánh hát Huỳnh Kỳ. Ông Mộc Quán Nguyễn Trọng Quyền đã viết 12 tuồng cho gánh hát Huỳnh Kỳ.
Năm 1929, ông được mời về làm thầy tuồng cho gánhn hát Hữu Thành của ông bầu Nguyễn Bá Phương ở Thốt Nốt. Ông đã viết 5 tuồng cho gánh hát Hữu Thành.
Năm 1935, ông Nguyễn Bữu ở Trà Vinh và cô Phùng Há lập ra gánh hát Phụng Hảo 3, mời ông Nguyễn Trọng Quyền làm thầy tuồng. Ông Quyền đã viết 7 tuồng cho gánh hát Phụng Hảo 3 mà hai vở tuồng San Hậu và Phụng Nghi Đình đến nay vẫn được nhiều đoàn hát khác đem ra sử dụng.
Năm 1937, gánh hát Hữu Thành tái sinh và gánh hát Kỳ Quan của ông Năm Hý ở Thốt Nốt thành lập. Hai gánh hát nầy mời ông Nguyễn Trọng Quyền làm thầy tuồng chung cho hai gánh hát. Thời gian này ông Quyền sáng tác 17 tuồng.
Năm 1939, ông Quyền làm thầy tuồng cho gánh hát Ngự Bình của Bầu Tư Thới, ông đã sáng tác 8 vở tuồng Tàu và dã sử cho đoàn hát Ngự Bình.
Năm 1952, ông Châu Văn Sáu tức Bầu Nhơn cùng với cô Phùng Há lập đoàn cải lương Phụng Hảo 4. Ông Mộc Quán Nguyễn Trọng Quyền viết một vở tuồng, lấy nước Nhựt làm bối cảnh cho câu chuyện, tựa tuồng là Luống Cày Rướm Máu. Tuồng nầy được hát một tuần lễ tại rạp Nguyễn Văn Hảo, kế đó phải tạm ngưng vì ông bầu Châu Văn Sáu và cô Phùng Há được tin là ông Mộc Quán Nguyễn Trọng Quyền bị đứt mạch máu não, đưa vào nhà thương Châu Đốc và trút hơi thở cuối cùng vào ngày 21 tháng 9 năm Qúy Tỵ (1953).
Cô Phùng Há, ông bầu Châu Văn Sáu, nghệ sĩ Năm Châu, Bảy Nhiêu, Năm Phỉ, Ba Vân, Từ Anh, Kim Cúc, Kim Lan về Thốt Nốt dự lễ an táng ông Mộc Quán Nguyễn Trọng Quyền tại xã Trung Nhứt, huyện Thốt Nốt. Cô Phùng Há đứng ra xây một ngôi mộ cho ông tại ấp Phụng Thạnh 2, xã Trung Nhứt vì cô Phùng Há vừa là đệ tử, vừa là dưỡng nữ của ông Mộc Quán.
Ông Mộc Quán Nguyễn Trọng Quyền làm thầy tuồng được 50 năm, sáng tác được 85 vở tuồng cải lương nổi danh. Ngoài ra ông còn là một nhà thơ và viết nhiều thể loại với các bút danh Mộc Quán, Thốc Sơn, Hưng Hoành, Cái Sơn Bô Lão.
Ngoài 85 tuồng cải lương, ông còn sáng tác 7 tập thơ tuồng, 12 tập sách dạy con cháu cách xử sự ở đời và trên 100 bài thơ các loại. Ngoài tác phẩm Trùng Ma Phụ Giám, ông còn viết Phu Thê Ngôn Luận và 113 câu hát đối đáp. Số sáng tác phẩm của ông vừa được kể ra, hiện nay đã được tái bản và lưu giữ nơi các cơ quan văn hóa của tỉnh Cần Thơ. Các tuồng có bút tích của ông Mộc Quán hiện được cô Phùng Há cất giữ.
Các nghệ sĩ cải lương hậu bối ngày nay đều tôn vinh cụ Mộc Quán Nguyễn Trọng Quyền là một vị Hậu Tổ của Cải Lương.