TÁC GIẢ THANH HIỀN KHÔNG CHỈ LÀ MỘT CÂY VIẾT SÁNG TÁC VỌNG CỔ NỔI TIẾNG CỦA CÁCH MẠNG, CUỘC ĐỜI SÁNG TÁC CỦA ÔNG CÓ HƠN 2000 BÀI VỌNG CỔ VÀ BÀI BẢN TÀI TỬ. ÔNG CÒN LÀ NGHỆ NHÂN ĐỜN KÌM NHẠC TÀI TỬ TIÊU BIỂU CỦA KHU VỰC MIỀN ĐÔNG NAM BỘ. ÔNG LỚN LÊN TỪ MÔI TRƯỜNG NGHỆ THUẬT CÁCH MẠNG TRONG KHÁNG CHIẾN LIÊN TỤC CHO ĐẾN THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HÓA – HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC. ĐẾN NAY, TUỔI ĐỜI CỦA ÔNG ĐÃ ”CỔ LAI HY” MÀ VẪN CHƯA NGƠI NGHĨ.
HÔM RỒI (16.04.2012), TÔI CÒN GẶP ÔNG DẪN CLB ĐỜN CA TÀI TỬ CỦA TỈNH TÂY NINH ĐẾN GIAO LƯU VỚI CLB ĐỜN CA TÀI TỬ TP. HCM, VÀ ÔNG THỦ ĐỜN KÌM CÒN KHÁ PHONG ĐỘ. ĐỜN – VIẾT TRONG KHÓI LỬA.
Tác giả Thanh Hiền tên thật là Đỗ Văn Trượng, sinh năm 1942, tại xã Gia Lộc, huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh. Ông được gia đình cho ăn học tương đối khá, khá cả tiếng Pháp và tiếng Hán. Cùng với thời học sinh, Thanh Hiền còn học cả nhạc Tài tử, ông ca và đờn một số nhac cụ, nhưng đờn Kìm là sở trường, ông học người chú lúc ông 8 tuổi. Khi đi kháng chiến cây đờn Kìm cũng đồng hành với ông từ đó cho đến bây giờ.
Nhờ khả năng ca cầm và vốn liếng chữ nghĩa nên khi là một thanh niên, Thanh Hiền hăng hái tham gia Phong Trào Văn Nghệ ở địa phương từ năm 1958. Lúc đó ông viết một số bài bản Tài tử, chập cho Đội Văn nghệ ở quê nhà. Sau đó Thanh Hiền được Đoàn Văn công tỉnh Tây Ninh rút về và hoạt động nghệ thuật chuyên nghiệp (1960).
Với tính tình năng động trong nghệ thuật đờn ca, Thanh Hiền còn là cây viết nhạy bén sáng tác về đề tài nóng có tính thời sự lúc bấy giờ nên ông được Đoàn Văn công Giải phóng ”R” rút về (1961) làm Trưởng ban Cổ nhạc, ông vẫn đờn Kìm chánh và giữ song lang. Những năm sau đó, Thanh Hiền được đơn vị cử đi học các lớp: Thông tin, Báo chí và Văn nghệ (1963-1964) do các Thầy Trần Bạch Đằng, Trần Hữu Trang, Nguyễn Hiếu Minh,… giảng dạy.
Khi lớp học kết thúc, các học viên được phân công đi thực tế sáng tác và viết bài phản ánh chiến trường miền Nam cho Đài TNVN và Đài phát thanh Giải phóng (CP 90). Riêng Thanh Hiền thì được phân công về các tỉnh miền Đông và Tây Nam Bộ như: Tây Ninh, Sài Gòn – Gia Định, Long An, Trà Vinh, Bến Tre, Mỹ Tho … từ cuối năm 1964 – 1968. Đây là giai đoạn mà TG Thanh Hiền viết Vọng cổ về đề tài kháng chiến, với nội dung đa dạng ca ngợi những người nông dân chịu thương chịu khó, bám đất giữ làng lòng kiên trung với Cách mạng qua hình tượng bác nông dân, cô du kích, bà mẹ chiến sĩ, anh dân quân…
Những bài vọng cổ tiêu biểu thời đó, được phát trên Đài phát thanh Giải phóng, hầu hết các bài được NSUT Thanh Hùng và NSUT Ngọc Hoa ca như: Em bé Phú Riềng, Vui kháng chiến, Gởi bạn khúc tình ca, Tiếng sóng biển tiếng quê hương, Xuân vui Long An tươi màu lá mạ, Lá thư Đường Bốn, Đường ra trận hôm nay…Đến năm 1969, Thanh Hiền được về Trường Văn nghệ Giải phóng (B 2.5), Rồi đi hoc các lớp ở Hà Nội (1972 – 1975): Trung – cao cấp Nguyễn Ái Quốc, Lý luận nghiệp vụ Văn hóa, Dự bị Đại học Sân khấu…
Nhưng trong thời gian này, ngoài giờ học ở Trường, là ông thường xuyên có mặt ở Đài phát thanh Giải phóng, vì lúc đó tác giả Trần Nam Dân là Trưởng Ban biên tập văn nghệ của Đài rất mến thích Thanh Hiền (ông Trần Nam Dân lớn hơn Thanh Hiền 13 tuổi), biết Thanh Hiền đờn Kìm và sáng tác hay nên kéo ông về cộng tác thường xuyên vừa đờn vừa sáng tác cho Đài cho đến ngày miền Nam Giải phóng.
VIẾT – ĐỜN LÚC HÒA BÌNH.
Ngay sau ngày Giải phóng (5/1975), tác giả Thanh Hiền cộng tác tại Hội Sân khấu TP.HCM, với chuyên môn là sáng tác, đến cuối năm 1978 ông xin chuyển công tác về Sở VHTT tỉnh Tây Ninh, để gần nhà chăm sóc cho mẹ già (vì ba người anh em trai của Thanh Hiền đã hy sinh trong trong chống Mỹ - liệt sĩ). Sau đó ông về làm Chủ tịch Hội VNNT tỉnh Tây Ninh cho đến khi về hưu (2007). Mặc dù ở cương vị nào , giai đoạn nào tác giả Thanh Hiền vẫn không rời cây đờn Kìm và cây viết, được xem như hai loại vũ khí suốt thời gian ông phục vụ Càch mạng.
Có lẽ công việc cấm viết sáng tác của tác giả Thanh Hiền qua nhiều giai đoạn khó mà thống kê, theo ông cho biết số lượng bài ca lẻ lên đến 2.200 bài (Vọng cổ, bài lý, bài bản Tài tử) tính từ năm 1958 đến năm 2012, và khoảng 20 kịch bản Cải lương đều đã được sử dụng trên các Đài PT&TH, sân khấu, nhất là Đài phát thanh Giải phóng và Đài TNVN. Những kịch bản Cải lương tiêu biểu như: Lá thư cô Hiếu (Giải Nhất – Đài phát thanh Giải phóng), Đám cưới cô Trầm, Vì sao anh chưa về (Giải Nhì – Đài phát thanh Giải phóng), Tiếng hát An Cơ (Huy chương bạc – Đoàn CL Tây Ninh), Chim Quyên xuống đất (Huy chương bạc – Đoàn Văn công Đồng Tháp)… Về bài ca lẻ, nhóm ba bài lý: Lý sáng trăng, Lý bọng đậu và Lý tầm quân đoạt Huy chương vàng tại Liên hoan Đờn hát dân ca toàn quốc -1985.
Riêng về thể loại Vọng cổ, từ sau năm 1975, tác giả Thanh Hiền sáng tác khá nhiều bài vừa cho các đài và cho phong trào ở địa phương, nhưng trong đó những nổi tiếng và được bài phổ biến rộng trong dân gian, ai cũng có thể thuộc lòng và ca được như: Bông điệp Sài Gòn (NS Minh Cảnh ca), Tấc đất tấc vàng, Chuyến xe Tây Ninh (Thanh Tuấn ca), Rẻ mạ đầu mùa (Minh Cảnh – Thanh Kim Huệ ca), Lan trắng, Cây thương nhớ, Tâm sự Ngọc Hân…
Bút pháp sáng tác Vọng cổ củaThanh Hiền có nét rất riêng, văn phong nhẹ nhàng, không chỉ chuẩn xác về vần điệu, âm nhạc cho người ca dễ ca mà còn tạo sự xúc cảm nữa. Do đó, ca từ của Thanh Hiền gợi cảm mạnh mẽ không chỉ với người ca mà còn chinh phục tình cảm của người nghe. Nói mặt nào đó, tác giả Thanh Hiền viết Vọng cổ rất chắt lọc từ ngữ , gọi là lời văn nghệ thuật được tác giả trau chuốt và gọt giũa cẩn thận, nên khi ca âm từ có màu âm ngữ điệu mướt mát, nhưng cũng thật sâu sắc; lại có những cảnh huống, nội dung ông sử dụng từ ngữ bình dân, mộc mạc nhưng tinh túy để thích hợp với hoàn cảnh và tâm trạng của nhân vật trong bối cảnh đó mà ông đề cập.
Nói chung, TG Thanh Hiền có vốn văn chương phong phú, vận dụng ngôn từ cơ bản cả về cú pháp lẫn biện pháp tu từ, nên hầu hết tác phẩm của ông sinh động, mượt mà, bóng bẩy về hình thức biểu đạt ca từ; giàu cảm xúc và tâm trạng, đa dạng ngữ nghĩa và sâu lắng về nội dung hàm ý…
Về đờn Kìm, nghệ nhân Thanh Hiền là một đại biểu của giới Tài tử miền Đông, ông có lối đờn xôm tựu và hùng tráng ở hơi điệu Bắc, buồn mùi ở hơi điệu Nam – Oán. Vọng cổ thì trẻ trung dù tuổi ông đã lớn. Cụ thể gần đây, hôm CLB Đờn ca Tài tử Tây Ninh giao lưu với TP.HCM Thanh Hiền om đờn Kìm và giữ Song lang hòa tấu cùng 6 nhạc sĩ TP.HCM rất ngoạn mục và thỏa mãn thính giác người mộ điệu qua nhiều bài bản lớn và Vọng cổ nhịp 4, 8, 16 và 32.
Ông chạy ngón đờn nhanh nhẹ, ngón nhấn đâu ra đó, các âm sắc chuẩn xác chắc nịch với nhạc điệu…Nét riêng của ông khi hòa tấu thường hay nhường cho bạn đờn những láy đờn chánh, ông đan xen và thình thoảng ”xốc” vài chữ lạ nghe rất hay, tạo âm sắc uươi tắn và chẻ nhịp khá điệu nghệ…
Với cuộc đời hoạt động Cách mạng và cống hiến cho nghệ thuật dân tộc, ngoài những giải thưởng tác phẩm nêu trên, tác giả Thanh Hiền còn được Nhà nước trao tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhất, Giải thưởng Nguyễn Đình Chiểu đợt I và II (trong chiến khu), Giải thưởng văn học Nguyễn Thông – Long An năm 2002, nhiều Huân, Huy chương, Bằng – giấy khen khác.
Từ ngày về hưu đến nay, ông vẫn sáng tác đều tay về lời ca mới cho nhạc Tài tử khá nhiều, ông cùng vài tác giả khác in thành một tập tương đối đầy đủ bài bản Tài tử và một tập Vọng cổ. Hiện nay ông là Chủ nhiệm CLB Đờn ca Tài tử tỉnh Tây Ninh. Ông tâm sự, niềm vui, và hạnh phúc lớn nhất của ông hiện nay , ngoài gia đình ra thì ông còn việc cầm viết đề sáng tác và cầm đờn để cùng bạn đồng điệu tri âm là không còn gì hơn nữa…