Thanh Nga cùng chồng con và mẹ lúc sinh thời. Ảnh: Viễn Kính
Năm 8 tuổi, Thanh Nga chính thức bước lên Sân khấu Thanh Minh diễn vai đào con Nghi Xuân trong vở Phạm Công Cúc Hoa, lập tức được khán giả gọi là “thần đồng Thanh Nga”. Năm 16 tuổi, với vai đào chính sơn nữ Phà Ca trong vở Người vợ không bao giờ cưới… đã đưa Thanh Nga tiến thẳng đến đài vinh quang, trở thành nghệ sĩ đoạt huy chương vàng đầu tiên của giải Thanh Tâm năm 1958. Danh hiệu Nữ hoàng sân khấu cũng ra đời từ đây và đi theo Thanh Nga cho đến ngày cô từ giã cõi đời…
Trong bài viết này, chúng tôi không nhắc nhiều về hành trình trở thành một tài năng sân khấu của Thanh Nga mà chỉ nhắc lại những mối quan hệ đặc biệt của cô mà cho đến bây giờ, khán giả ít người biết đến.
Thanh Nga và những chuyện tình
Nếu giải Thanh Tâm đưa “Phà Ca” sáng lên như ngôi sao mới mọc thì cũng đưa vào đời một cô gái trẻ đẹp Thanh Nga bắt đầu biết mộng biết mơ. Tiếp theo là những lời đồn đại về chuyện tình cảm của Thanh Nga với các anh kép. Trong đó, mối tình đẹp nhất trên sân khấu lẫn ngoài đời của cô chính là với nghệ sĩ Thành Được. Sau ngày chia tay với nữ nghệ sĩ tài danh Út Bạch Lan, Thành Được về cộng tác Đoàn Thanh Minh Thanh Nga. Thanh Nga nhỏ hơn Thành Được 8 tuổi và lúc bấy giờ đã là ngôi sao 24 tuổi. Được rất nhiều người đeo đuổi nhưng cô chưa muốn nhận lời cầu hôn nào. Mọi người chờ đợi tiệc rượu hồng giữa Thanh Nga với một chàng rể nào đó, nhưng không có. Sau đó biết rằng Thanh Nga đã thương Thành Được. Vở diễn tâm đắc của họ là Sân khấu về khuya của soạn giả Năm Châu, Thanh Nga vai Giáng Hương, Thành Được vai Lĩnh Nam, khắng khít trên sân khấu hằng đêm. Từ sân khấu tới trường đời, hai người thân thiết, đậm đà như vợ chồng. Rồi chuyện bất ngờ xảy đến, gây tan vỡ. Trong một đêm diễn tại Rạp Hưng Đạo, Thanh Nga bỗng thấy bị xúc phạm vì trên hàng ghế ưu tiên, có mặt người tình cũ của Thành Được ở nước ngoài về, được Thành Được mời đến xem... Thanh Nga giận tím mặt, ngay đêm đó, không cần giấu giếm gì nữa, cô nói với Thành Được sau hậu trường có đông người: “Bắt đầu ngày mai, tôi sẽ là vợ của người khác. Anh hãy quay lại với cô ấy”. Không lâu sau, Thành Được buồn bã rời khỏi Đoàn Thanh Minh Thanh Nga với cái đầu cạo trọc và mấy câu ca: Ví dầu sợi tóc chẻ đôi. Thì hình bóng cũ trong tôi vẫn còn... Sau này, NSƯT Thanh Kim Huệ trong một chuyến du lịch sang Mỹ gặp Thành Được bên đó mới hỏi ông rằng: “Nay đã qua ngưỡng “thất thập cổ lai hy” rồi, ngẫm lại trên đường tình, anh thấy thương ai nhất?”. Thành Được đáp: “Đến bây giờ, tôi vẫn thương Thanh Nga nhất, cô ấy là một nghệ sĩ có tâm tính hiền lành, trong sáng”. Thanh Nga đau xót nhiều trong các chuyện tình và cô thật sự tìm thấy tình yêu đích thực với Phạm Duy Lân, dù ông lớn hơn Thanh Nga nhiều tuổi. Cả hai từng có những tháng ngày rất hạnh phúc, nhất là khi họ dọn về ở cư xá Đô Thành, đường Phan Thanh Giản (nay là Điện Biên Phủ, quận 3, TP.HCM). Hai người đi chiếc honda, vóc dáng ông Lân to lớn dềnh dàng, cao đến 1,80m, rất ấn tượng. Ông rất thông cảm cho nghề nghiệp của vợ, ân cần động viên, góp ý cũng như hỗ trợ tinh thần cho Thanh Nga thăng hoa với những vai diễn. Trong các năm tháng hạnh phúc đó, Thanh Nga tươi vui hẳn ra, có lẽ cô đã được “tự do” sau khi rời “chiếc lồng son sân khấu”. Sau ngày sinh đứa con trai đầu lòng (và cũng là duy nhất) Phạm Duy Hà Linh năm 1973, vợ chồng Thanh Nga về ở ngôi biệt thự trên đường Ngô Tùng Châu, đó cũng là nơi ông Lân mở văn phòng luật sư riêng, cũng là nơi hai vợ chồng cô ra đi vĩnh viễn vào lúc hơn 23 giờ khuya ngày 26-11-1978 sau một loạt súng oan nghiệt...
Người phụ nữ quan trọng nhất trong cuộc đời Thanh Nga
Đó là bà bầu Thơ - chủ gánh Thanh Minh - Thanh Nga, mẹ của NSƯT Thanh Nga và NSƯT Bảo Quốc, bà nội của nghệ sĩ Hữu Châu. Bà chống đỡ một đại gia đình nghệ sĩ và một đại gia đình cải lương với hàng trăm diễn viên bằng một bản lĩnh lạ lùng, người ta nể bà chính ở sự quản lý chặt chẽ ngay cả với con cháu mình, ai cũng nghĩ nghệ sĩ Thanh Nga là ngôi sao rực rỡ lúc bấy giờ, lại là con ruột của chủ gánh thì tha hồ mà yêu sách. Nhưng chỉ cần Thanh Nga đi tập tuồng trễ 10 phút là bà đã cắt vai, khiến cô sợ xanh mặt. Một lần khác, Thanh Nga và Thanh Sang giận nhau, cô nhờ chồng qua nói với mẹ là “bị bệnh” không hát được. Bà nhỏ nhẹ: “Thôi được rồi, má sẽ trả vé lại khán giả, còn vợ chồng tụi bây phát lương cho anh em đi, vì nghỉ một đêm người ta bị mất lương, tội nghiệp”. Vợ chồng Thanh Nga hết hồn, vì phát lương cho cả trăm người, đâu phải chuyện đùa. Thế là cô lò dò vô hát. Với con cái mà bà còn như vậy, nên người khác sợ bà không có gì là lạ. Bà thường nói: “Nghệ thuật mà có tình cảm chen vào là thất bại, đứa nào có tài năng thì lên, không thì thôi, chứ đâu phải tôi lập đoàn để lăng xê con cái”. Ngay cả Hữu Châu là cháu nội, bà cũng bắt đi học, mướn vú nuôi tại Sài Gòn chứ không cho lang thang theo đoàn. Khoảng năm 1972-1975, đoàn tạm nghỉ vì cơn sóng phim chưởng, bà vẫn kiên quyết bán từng món đồ trong nhà cho Hữu Châu cắp sách đến trường.
Ngày Thanh Nga mất, rất nhiều người Sài Gòn đưa tang và khóc. Vậy mà bà không để rơi một giọt nước mắt nào trước mặt mọi người. Bà bình tĩnh sắp xếp đám tang đâu vào đó. Và xong đám, bà lãnh đạo anh em lao vào tập tuồng ngay vì đoàn không thể đóng cửa sẽ ảnh hưởng đến đời sống anh em và phụ lòng tin yêu của khán giả. Tập đúng tuồng Thái hậu Dương Vân Nga mà Thanh Nga đã thủ diễn, (bây giờ Kim Hương thay vai), trái tim người mẹ ấy như tan nát. Nhưng không ai thấy bà khóc, chỉ vài tháng sau mái tóc từ màu đen bỗng chuyển sang bạc trắng. NSƯT Bảo Quốc ngậm ngùi: “Lúc đó, anh em chúng tôi đã phải giăng mùng ngủ quanh giường mẹ, không dám cho mẹ ngủ một mình. Có lẽ tôi học được bản lĩnh của mẹ nên sau này gặp khó khăn gì, tôi cũng cố vượt qua…”.
Lê Quang Thanh Tâm
Hoa hậu Đền Hùng Giáng My từng nhận lời mời đóng vai Thanh Nga trong bộ phim Vụ án Thanh Nga. Nhưng rồi bộ phim này không bao giờ được thực hiện với lý do gia đình cố nghệ sĩ Thanh Nga không muốn gợi lại chuyện buồn quá khứ, vì vậy Hãng phim Người Bảo Vệ đành hủy bỏ kế hoạch sản xuất.
“Người đẹp Bình Dương” Thẩm Thúy Hằng năm 1972. Ảnh: Viễn Kính
Có thể nói, Thẩm Thúy Hằng là một diễn viên điện ảnh danh tiếng của Việt Nam. Kể từ khi chính thức bước vào nghề năm 1958, chị đã tạo được tiếng vang đồng thời trở thành một trong những gương mặt nữ hiếm hoi của nước ta đứng vào hàng ngũ minh tinh của Á châu suốt các thập niên 60-70. Đặc biệt, chị là biểu tượng một thời của sắc đẹp miền Nam.
Nhân chuyến tham dự Liên hoan phim Băng Cốc mới đây, người viết đã tìm được một số bộ phim mà Thái Lan từng hợp tác với Việt Nam thực hiện trước năm 1975. Trong số đó có bộ phim Vàng do đạo diễn Chalong Pakdivijit thực hiện, hãng Colombia - Mỹ phát hành với sự diễn xuất của các ngôi sao “đa quốc tịch” như Thẩm Thúy Hằng, Greg Moris, Anoma Palalak, Krung Srivilai… Đây là bộ phim mà Thẩm Thúy Hằng được công chúng Thái rất yêu mến bởi tên của chị được giới thiệu riêng biệt, to và trang trọng trên màn hình, bộ phim cũng đạt doanh thu cao nhất trong lịch sử điện ảnh của Thái Lan.
Hoa hồng trải thảm lối đi
Tên thật của Thẩm Thúy Hằng là Nguyễn Kim Phụng, sinh năm 1941 tại An Giang. Năm 16 tuổi, chị vô tình nhận được từ tay cô bạn thân một trang báo có đăng quảng cáo cuộc thi “Tuyển diễn viên điện ảnh” của Hãng phim Mỹ Vân, điều hấp dẫn đối với chị không phải là được trở thành một ngôi sao danh tiếng, mà là trong thể lệ cuộc thi, người đoạt giải sẽ được sang Hồng Kông theo học lớp đào tạo diễn xuất nên chị đã cùng cô bạn thân ghi tên dự tuyển. Ngày bước vào vòng thi tuyển, chị len lén giấu chiếc áo dài vào trong chiếc cặp học sinh đến nơi dự thi. Giữa muôn ngàn đóa hoa hương sắc, với những gương mặt sáng ngời nổi bật của Mộng Tuyết, Thu Trang, Trang Thiên Kim, Kiều Chinh… đã làm cho chị chùn bước, phân vân. Chính bà Mỹ Vân đã phát hiện ra chị, bà đã đến động viên chị nên mạnh dạn bước vào vòng thi. Và cô nữ sinh Nguyễn Kim Phụng đã vượt qua hơn hai ngàn thí sinh, bước lên đài vinh quang bằng giải nhất của cuộc thi này với nghệ danh Thẩm Thúy Hằng. Từ vai diễn đầu tiên Tam nương trong bộ phim Người đẹp Bình Dương, đóng cặp với nam diễn viên Nguyễn Đình Dần đã đưa chị bước lên ngôi vị nữ diễn viên khả ái nhất của màn ảnh Sài Gòn vào cuối thập niên 50 đầu thập niên 60…
Rồi những hợp đồng đóng phim thi nhau mời gọi, nhan sắc và tài năng của Thẩm Thúy Hằng ngày càng đi lên đỉnh cao. Chị là người giữ kỷ lục về số đầu phim truyện nhựa đã tham gia (hơn 60 phim) như: Trà hoa nữ, Tấm Cám, Sự tích trầu cau, Nửa hồn thương đau, Đôi mắt huyền, Sóng tình… Thời rực rỡ nhất của chị là khoảng thời gian 1965-1972, chị thành lập nhóm làm phim Thẩm Thúy Hằng sản xuất bộ phim Chiều kỷ niệm với sự tham gia diễn xuất của chị cùng các tên tuổi nổi tiếng như Thanh Tú, Năm Châu, Kim Cúc, Phùng Há, Việt Hùng, Ngọc Nuôi… đã tạo nên một hiện tượng. Ngay ngày chiếu đầu tiên, khán giả đã chen chúc tới hai rạp để giành vé. Thành công này đã giúp cho chị thực hiện tiếp bộ phim Như hạt mưa sa cũng đã đoạt doanh thu rất cao. Danh tiếng và địa vị càng được nâng cao hơn khi chị xuất hiện tại Hồng Kông, Đài Loan, Hàn Quốc, Ấn Độ, Thái Lan, Singapore, Indonesia để đóng phim và dự liên hoan phim. Đi đến đâu chị cũng được khán giả hâm mộ, tôn vinh. Cát-xê của Thẩm Thúy Hằng cũng thuộc hạng cao nhất thời đó, như năm 1974, chỉ cần xuất hiện một số phân đoạn trong một bộ phim hài chiếu tết, chị nhận được hơn một triệu đồng bởi có tên của chị là bảo đảm doanh thu khi bộ phim được trình chiếu.
Mùa xuân năm 1975, nhiều người đồn thổi rằng Thẩm Thúy Hằng đã ra nước ngoài định cư, kể cả tin đồn chị đã chết trong một chuyến vượt biên… Nhưng chị vẫn còn đó, vẫn ở lại quê hương cùng với các tên tuổi gạo cội khác của nền nghệ thuật miền Nam tiếp tục đóng phim, diễn kịch. Chị cùng với Nguyễn Chánh Tín tạo nên những đêm diễn tuyệt vời trên sân khấu Đoàn kịch Bông Hồng qua các vở: Cho tình yêu mai sau, Đôi bông tai, Biệt thự hoang tàn… Vai diễn cuối cùng của chị trước khi từ giã lĩnh vực nghệ thuật là vai Phồn Y trong vở Lôi vũ của Đoàn kịch Kim Cương. Một tai nạn nghề nghiệp mà đến giờ chị vẫn không quên đó là năm 1970, khi quay bộ phim Xin đừng bỏ em, Thẩm Thúy Hằng đã bị ngọn đèn Sunlight rớt xuống trúng ngay đầu trong khi đang “say mê” diễn xuất. Tai nạn đã làm ảnh hưởng đến dây thần kinh thị giác của chị, “xém” làm cho “Người đẹp Bình Dương” trở thành “độc thủ mỹ nhân”.
Một cuộc sống bình yên
Hiện tại, chị không còn tham gia hoạt động nghệ thuật nữa, một phần là do sức khỏe, một phần là vì chị muốn khán giả luôn giữ trong lòng hình ảnh người đẹp Thẩm Thúy Hằng của quá khứ… Chị sống giản dị, bình yên cùng con cái trong ngôi nhà yên tĩnh ở khu vực Bình Quới - TP.HCM. Ngoài ra, chị còn có niềm vui khác là nghiên cứu về thiền, ngồi thiền, ăn chay trường… Chồng chị, giáo sư - tiến sĩ Nguyễn Xuân Oánh đã mất năm 2003 do mắc bệnh về tim mạch. Gặp bạn bè đến thăm, chị vẫn vui vẻ khi được khơi gợi lại ký ức về cuộc đời nghệ thuật. Thỉnh thoảng, khán giả vẫn thấy một số bộ phim, vở kịch được dàn dựng tại các sân khấu với tên tác giả là Thẩm Thúy Hằng như Chuyện tình của em, Nụ cười và nước mắt, Người hạnh phúc… Chị tâm sự: “Tôi thường xuyên tham gia công tác từ thiện trong khả năng của mình, đem lại phần nào no ấm hạnh phúc cho người kém may mắn trong xã hội. Niềm đam mê nghệ thuật thì vẫn còn chảy mãi trong tôi, lúc nào tôi cũng suy nghĩ đến kịch, đến phim, đến những bạn bè, khán giả tri âm tri kỷ…”.
Lê Quang Thanh Tâm
Thời vang bóng của Thẩm Thúy Hằng đã đem về cho chị những giải thưởng điện ảnh quốc tế như: hai lần đạt giải Diễn viên xuất sắc Á châu tại Liên hoan phim Đài Bắc; Ảnh hậu Á châu trong Liên hoan phim Á châu tổ chức tại Hồng Kông và Đài Loan (1972, 1974). Liên bang Xô Viết đón chào chị, ngưỡng mộ chị khi bầu chọn chị là Nữ diễn viên khả ái nhất, vượt qua các đối thủ là những diễn viên xinh đẹp đến từ Đông Âu, Nhật Bản, Trung Quốc, Mông Cổ vào năm 1982.
“Kỳ nữ” Kim Cương (phải) và bạn thân Thẩm Thúy Hằng thời còn trẻ. Ảnh: Viễn Kính
Năm 16 tuổi, Kim Cương chính thức tham gia vào nghiệp diễn chuyên nghiệp tại đoàn Năm Phỉ. Năm 1956, lần đầu tiên đóng vai chính trong vở Giai nhân và ác quỷ. Ngay lập tức, cô được báo chí phong tặng là “Kỳ nữ Kim Cương”. Tiếp theo là một Điêu Thuyền lả lướt và tài sắc bên cạnh Lữ Bố oai hùng của má bảy Phùng Há trong Lữ Bố hí Điêu Thuyền. Dư luận thời ấy lúc nào cũng xôn xao bàn tán về những vai diễn của cô đào trẻ, đẹp, khả ái Kim Cương.
Diễn xuất - kinh doanh - biên kịch đều giỏi
Là con gái của cố NSND Bảy Nam, gia đình mấy đời gắn bó với cải lương, nhưng đến lượt Kim Cương, sau những vai thành công trong các vở cải lương, chị lại thấy mình thích hợp với kịch nói hơn. Và chị đã thành công rực rỡ với sự chuyển hướng của mình với nhiều vở diễn sống mãi trong lòng khán giả như Vực thẳm chiều cao, Lá sầu riêng, Dưới hai màu áo, Tôi làm mẹ, Nhân danh công lý… cùng một dàn diễn viên nổi tiếng: NSND Bảy Nam, Kim Cương, Túy Hoa, Ngọc Đức, Tú Trinh, Ngọc Đan Thanh, Kiều Phượng Loan, Huỳnh Thanh Trà, Vân Hùng, Thương Tín, Long Hải… rồi đến các vở Lôi vũ, Người tình trễ xe, Bông hồng cài áo, Sắc hoa màu nhớ… cũng thành công vang dội.
Làm nghệ thuật thì được phong là “kỳ nữ”, kinh doanh nghệ thuật Kim Cương cũng giỏi không kém, đây là một điều mà xưa nay rất hiếm, bởi nghệ sĩ tài danh rất khó thành công trong kinh doanh. Nhưng chị đã làm được. Hơn mấy chục năm theo nghề hát, chị đã đẩy mạnh “thương hiệu” đoàn kịch Kim Cương đứng ở vị trí số một trong làng kịch nói miền Nam. Bước qua phim ảnh, chị cũng là nữ nghệ sĩ chiếm kỷ lục về đầu phim tham gia, đồng thời là một nhà sản xuất phim năng động, nắm bắt thị hiếu khán giả tuyệt vời. Từ những phim chị sản xuất trước năm 1975 như: Biển động, Mưa trong bình minh, Chiếc bóng bên đường… hay những phim thực hiện sau này Lá sầu riêng, Trà hoa nữ… đều đạt doanh thu rất cao. Trong khi nhiều phim Việt ra đời bị các rạp (do người Hoa làm chủ) không cho trình chiếu phải ngất ngư nằm chờ chết, thì những bộ phim của Kim Cương lại được chiếu hết rạp này đến rạp khác, do đó mà chị không tránh khỏi các điều tiếng thị phi, ganh tỵ.
Trước những năm đất nước thống nhất, hàng triệu khán giả Sài Gòn rất mộ điệu sân khấu cải lương, đi “coi hát” đã trở thành thói quen của họ. Kịch nói chỉ có mỗi đoàn Kim Cương là hấp dẫn với những vở diễn đậm chất bi thương. Với bút danh Hoàng Dũng, Kim Cương đã viết trên 50 vở kịch tâm lý xã hội, hầu hết được biểu diễn trên sân khấu Kim Cương, “lấy” không biết bao nhiêu nước mắt của khán giả.
Sở trường của Kim Cương mà khán giả ấn tượng nhất là vào những vai bi. Một lần, chị đóng phim Trương Chi - Mỵ Nương, đến cảnh Mỵ Nương nhìn chén ngọc thấy hồn Trương Chi trong chén, cô cảm động và khóc. Theo yêu cầu của đạo diễn, nhân vật Mỵ Nương của Kim Cương chỉ nên nhỏ vài giọt nước mắt rớt vào chén để cho hồn Trương Chi tan biến vào hư vô. Nhưng có lẽ do quá nhập tâm vào nhân vật mà chị đã khóc sướt mướt, khóc ngon lành đến hơn một giờ đồng hồ khiến đoàn phim phải ngừng quay chờ chị… nín.
Hơn mười năm qua, Kim Cương không còn xuất hiện trên sân khấu nữa mà tập trung thời gian vào các công việc phúc lợi, làm từ thiện. Chị thường xuyên tổ chức các buổi văn nghệ gây quỹ cứu trợ bão lụt, giúp trẻ em mồ côi, những người tàn tật. Hiện, chị là Phó chủ tịch Hội Bảo trợ người tàn tật - mồ côi TP.HCM.
Tình yêu mong manh
Vinh quang không sao kể hết, nhưng hạnh phúc riêng tư đến với Kim Cương rất mong manh. Chị từng tâm sự rằng: “Kim chết lên chết xuống vì yêu. Nếu không yêu thì thôi nhưng đã yêu thì Kim yêu qua từng hơi thở, từng phút, từng giờ…”. Tình yêu đối với chị đọng lại nhiều nỗi buồn khi các mối tình vụt đến rồi ra đi. Sau những lần đó, công việc đã giúp chị quên đi nỗi buồn. Dù trong thời hoàng kim hay bây giờ, chị đều lấy sự bận rộn làm lẽ sống cho đời mình. Một câu chuyện mà ít khán giả biết đến đó là tình yêu của thi sĩ Bùi Giáng dành cho “Kỳ nữ” Kim Cương. Trong tâm hồn của Bùi Giáng hồi ấy, Kim Cương là “đệ nhất mỹ nhân” trong thiên hạ. Ông yêu Kim Cương bằng một tình yêu lạ lùng nhất thế gian. Kim Cương kể: “Đến bây giờ, Kim vẫn giữ rất nhiều bài thơ của anh Bùi Giáng viết tặng riêng cho Kim. Biết anh lúc Kim khoảng 19 tuổi, còn theo đoàn cải lương của má Bảy Nam. Sau vài lần tiếp xúc, Kim thấy ở anh toát lên cái gì đó “kỳ kỳ”, bất bình thường nên Kim sợ. Đeo đuổi mãi không được, anh thở dài nói với Kim: “Thôi, chắc cô không ưng tôi vì tôi lớn tuổi hơn cô (Bùi Giáng lớn hơn Kim mười mấy tuổi), vậy cô hứa với tôi là sẽ ưng thằng cháu của tôi nhé, nó trẻ, lại đẹp trai, học giỏi”. Kim cười: “Thưa anh, chuyện tình cảm đâu có nói trước được. Kim không dám hứa hẹn gì đâu…”. Kim nói thế để hoãn binh, nhưng sau đó anh đã đùng đùng dắt cháu tới. Trời ơi, hóa ra “thằng cháu” mà anh nói mới... 8 tuổi, Kim hết hồn, quả quyết là anh thật sự không bình thường”.
Từ đó, mỗi năm Bùi Giáng mỗi bệnh nặng hơn. Ông không có vợ con, suốt ngày đi lang thang ngoài đường, hò hét, trên người gắn đầy hoa, thường đến nhà tìm Kim Cương. Bé Toro, con trai của Kim Cương lúc ấy khoảng 5 tuổi, thường trố mắt ra nhìn ông, và hỏi: “Mẹ ơi, sao bác này giống cái xe hoa quá?”. Suốt 40 năm, cả chục cuốn sổ tay đã đầy ắp chữ của ông, chỉ riêng tặng “nương tử Kim Cương”. Những vần thơ yêu với nét chữ ngả nghiêng, chệnh choạng nhưng hồn nhiên say đắm này bây giờ là báu vật được chị trân trọng gìn giữ trong ngăn tủ.
Lê Quang Thanh Tâm
NSƯT Kim Cương luôn được khán giả yêu mến trong suốt hơn 40 năm hoàng kim của nghiệp diễn. Những giải thưởng mà chị đoạt được không thể nhớ hết: Diễn viên được yêu thích nhất năm 1956-1957; Diễn viên được yêu thích nhất của thoại kịch miền Nam; Tác giả kịch bản phim đoạt giải quốc tế…; mới đây, chị được Trung tâm Sách kỷ lục Việt Nam xác lập kỷ lục là Nữ tác giả sáng tác kịch bản sân khấu nhiều nhất Việt Nam.
Năm 1956, ông Trần Tấn Quốc (người sáng lập ra giải Thanh Tâm) có mở một cuộc trưng cầu ý kiến của khán giả và độc giả Báo Tiếng Dội. Nữ nghệ sĩ Kim Lan của đoàn Việt Kịch Năm Châu được bình chọn danh hiệu Hoa hậu Cải lương. Mãi đến năm 1963, nữ nghệ sĩ tài sắc Mộng Tuyền đoạt huy chương vàng giải Thanh Tâm thì chị là người thứ hai được phong tặng danh hiệu này.
Từ Kim Loan đến Mộng Tuyền
Mộng Tuyền sinh năm 1947 tại Cần Thơ. Năm mười tuổi, chị theo gia đình lên Sài Gòn học tại Trường dòng Bà Phước thuộc khu vực Cầu Ông Lãnh. Nhà nghèo, đông anh em, chị theo cha rong ruổi hát ở những đoàn hát nhỏ phụ giúp gia đình với nghệ danh Kim Loan. Năm 13 tuổi, chị cùng gia đình về lại Cần Thơ theo học cổ nhạc với thầy nhạc Ba Cứ, sau đó thành lập Ban Cổ nhạc Kim Loan thường trình diễn giúp Ty Thông tin Cần Thơ và Hội Khuyến học ở tỉnh nhà. Rời quê nhà một lần nữa, chị theo đoàn Thủ Đô ba tháng để tập luyện các bài bản cải lương. Năm 1961, chị chính thức bước chân vào nghề hát bắt đầu từ đoàn Hoa Sen của ông bầu Bảy Cao. Năm 1963, chị đầu quân về đoàn Thanh Minh - Thanh Nga, chính soạn giả Nguyễn Phương và Kiên Giang đề nghị bà bầu Thơ ký hợp đồng mời chị về đoàn cũng như viết vở Mùa xuân còn mãi hát tại rạp Hưng Đạo để giới thiệu nghệ sĩ trẻ Kim Loan. Nghệ danh Mộng Tuyền là do Kim Loan đóng vai sơn nữ Mộng Tuyền trong vở tuồng này được khán giả đón nhận nồng nhiệt. Sau đó, nhờ khả năng ca diễn xuất sắc khi thủ vai vũ nữ Thu Lan trong vở Phu tử tòng tử, chị đã được trao tặng huy chương vàng giải Thanh Tâm cùng năm với các nghệ sĩ Bạch Tuyết, Trương Ánh Loan, Tấn Tài, Thanh Tú, Diệp Lang. Năm 1967-1968, chị có vai Nhã trong Bọt biển 3 của soạn giả Nguyễn Phương tạo tiếng vang sau khi trở về cộng tác lại trên sân khấu Thanh Minh - Thanh Nga.Với bản tân cổ giao duyên Thầm kín, chị cũng đã ghi kỷ lục về doanh số bán ra thời bấy giờ. Không chỉ là hoa hậu cải lương, Mộng Tuyền còn là một ngôi sao điện ảnh. Bộ phim Gánh hàng hoa do Thái Dương Phim sản xuất năm 1971 (Mộng Tuyền vào vai Liên) thì 1972, chị vinh dự nhận giải Ảnh hậu qua vai diễn này của Báo Trắng Đen đồng thời trở thành ứng cử viên nặng ký của giải Diễn viên xuất sắc nhất. Ngay sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, Mộng Tuyền vinh dự cùng các ngôi sao của miền Nam khác như Thanh Nga, Thẩm Thúy Hằng, Kim Cương… tham gia bộ phim truyện nhựa đầu tiên của Đài Truyền hình TP.HCM là Cô Nhíp dài 2 tập (16 ly). Sau đó, chị tiếp tục tham gia phim Trang giấy mới, đặc biệt là bộ phim Tình yêu của em của đạo diễn Lê Mộng Hoàng, chị được trao tặng giải Nữ diễn viên xuất sắc nhất của Liên hoan phim Việt Nam năm 1982. Sau ngày nữ nghệ sĩ Thanh Nga mất, Mộng Tuyền lại vụt sáng khi thay thế hầu như tất cả các vai của Thanh Nga đã diễn trên sân khấu Thanh Minh - Thanh Nga. Với với vai Vân trong vở Bóng tối và ánh sáng, Mộng Tuyền đã đoạt huy chương vàng Hội diễn sân khấu toàn quốc tại Hải Phòng.
Chuyện đời - chuyện nghề
Chuyện tình cảm của Mộng Tuyền cũng rất lận đận và đoạn trường. Là nữ nghệ sĩ tài sắc vẹn toàn, được rất nhiều khán giả thương, trong số đó không thiếu những vương tôn công tử, giàu có danh tiếng bấy giờ, nhưng ba chị canh chừng con gái rất nghiêm ngặt nên tất cả các cây si đều bị “bứng gốc”. “Hồi đó tôi chỉ biết ca hát, không màng đến chuyện yêu đương… Tôi nhớ nhất là lần soạn giả Hà Triều gửi thư tình, tôi cũng không dám đọc, đem đến đưa cho ba xem, giờ nhớ lại thấy trẻ con quá. Chồng của tôi sau đó là một quân nhân trong chế độ cũ. Tôi lấy chồng vì bổn phận của một người chị muốn cho gia đình và các em sung túc, hạnh phúc nhiều hơn. Đối với chồng, tôi mang nặng ơn nghĩa hơn là tình yêu… Tuổi trẻ vẫn còn bồng bột và nông nổi, tôi chia tay với chồng cũng do định mệnh đưa đẩy mặc dù tôi rất quý trọng hai chữ hạnh phúc và gia đình… Cuộc tình thứ hai của tôi kéo dài gần 20 năm rồi cũng ly tan. Tôi vẫn không có đứa con nào…” - Mộng Tuyền tâm sự.
Người chị mà Mộng Tuyền yêu mến nhất cho đến ngày hôm nay chính là cố NSƯT Thanh Nga. Năm 1977, có một lần Mộng Tuyền mời vợ chồng Thanh Nga đi ăn khuya bỗng Thanh Nga nắm lấy tay Mộng Tuyền nói rất khẽ: “Chị sợ ngày mình phải chôn anh Duy Lân lắm (chồng Thanh Nga lớn tuổi hơn chị rất nhiều), nghĩ phải chia tay nhau chị rất buồn. Chị ao ước làm sao anh Lân và chị cùng được chết với nhau…”. Không ngờ câu nói ấy thành định mệnh. Ngày Thanh Nga mất, Mộng Tuyền đang ở Long Xuyên, nghe hung tin, chị tức tốc đi xe về Sài Gòn. Vào tới nhà xác Bệnh viện Sài Gòn, chị thấy xác Thanh Nga nằm trong khoang chứa xác, gương mặt vẫn đẹp như đang ngủ, không khác một thiên thần trong trang phục áo dài màu đỏ. Tuy nhiên, vì quá đau lòng mà Mộng Tuyền đã ngất đi… Gần 20 năm qua xa xứ, thời gian qua Mộng Tuyền đã chính thức về biểu diễn tại quê nhà trong liveshow của nghệ sĩ Lệ Thủy, Thanh Sang và liveshow riêng của chị tại Nhà hát TP. Bên cạnh đó, chị cũng tham gia một vai khá hay - bà Hạnh trong bộ phim truyền hình dài 30 tập Tôi là ngôi sao do Hồng Ngân đạo diễn. Đặc biệt, Mộng Tuyền đã phát hành album Nhớ mãi mưa rừng tập hợp các bài tân nhạc, tân cổ, trích đoạn cải lương gắn liền với tên tuổi của chị trước năm 1975 như: Mưa rừng của soạn giả Hà Triều - Hoa Phượng; ca khúc Sầu lẻ bóng của nhạc sĩ Anh Bằng cũng là bài hát đầu tiên chị xuất hiện hát tân nhạc trên sân khấu Thúy Nga Paris; trích đoạn Người đẹp Bạch Hoa Thôn của soạn giảHoàng Khâm,(vai diễn Lý Hương Lan của Mộng Tuyền bên cạnh Hữu Phước, Thành Được, Hoàng Long…) đã ghi dấu ấn trong lòng khán giả; bài tân cổ Nghe vọng cổ nhớ quê hương của soạn giả ViễnChâu nói về thân phận của những người Việt xa xứ luôn canh cánh một lòng khi nhớ về quê hương, chị đã hát và diễn hết mình như lời chị nói “diễn cho thật “đã” rồi dù có chết trên sân khấu cũng thấy mãn nguyện…”.
Lê Quang Thanh Tâm
Soạn giả Nguyễn Phương, người đã góp phần đưa Mộng Tuyền tỏa sáng trên sân khấu Thanh Minh - Thanh Nga nhận xét: “Mộng Tuyền là một nữ nghệ sĩ tài sắc, đẹp một cách tự nhiên. Với phong cách dịu hiền của người phụ nữ miền sông nước Hậu Giang, cô chẳng những chinh phục được sự ái mộ nồng nhiệt của khán giả bốn phương, mà còn nhận được sự thương yêu chân tình của các thế hệ nghệ sĩ đứng chung trên sân khấu”.
NSND Diệp Lang trong vai nhà đại thi hào Nguyễn Du vở Kim Vân Kiều. Ảnh: H.THANH
Hơn 50 năm hoạt động nghệ thuật, chưa một lần nghệ sĩ Diệp Lang được chọn đóng vai kép đẹp. Năm 1962, lần đầu tiên gia nhập vào sân khấu đại ban Kim Chưởng, Diệp Lang (lúc ấy 21 tuổi) đã được soạn giả Thu An chọn vào vai người cha 70 tuổi trong vở Người anh khác mẹ. Không ngờ vai diễn này đã giúp cho Diệp Lang đoạt giải thưởng Thanh Tâm năm 1963, đồng thời mang lại cho ông thêm bằng danh dự của giải thưởng này một năm sau đó.
Và nó như một định mệnh, những vai diễn tiếp theo của Diệp Lang cũng toàn là vai lớn hơn tuổi đời của ông rất nhiều. Danh hiệu “Vua kép lão” từ đó đã gắn liền với tên tuổi của ông cho đến ngày hôm nay với hầu hết lời khẳng định của giới chuyên môn: không ai đóng vai lão hay bằng Diệp Lang.
“Kép lão vẫn sống thọ”
Dù đã đóng hàng trăm vai lão nhưng mỗi vai của Diệp Lang đều có những nét độc đáo, đặc biệt riêng, không hề có sự lẫn lộn. Chính vì thế, nhiều khán giả gặp Diệp Lang ngoài đời, cứ gọi ông bằng tên các vai diễn đầy sự yêu mến: ông Hai Nguyện (Ánh lửa rừng khuya), hội đồng Dư (Tiếng hò sông Hậu), hội đồng Thăng (Đời cô Lựu), ông Hương Cả (Tô Ánh Nguyệt), ông Tư trời biển (Lời ru của biển), Lỗ Quý (Lôi Vũ), ông Bá Kiến (Chí Phèo - Thị Nở), ông Tư đàn cò (Cung đàn thương nhớ), thi hào Nguyễn Du (Kim Vân Kiều)…
Nghệ sĩ Diệp Lang sinh ra tại thị xã Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp. Cha ông ngày trước là thầy đàn kìm Ba Diệp rất nổi tiếng. Tuy nhiên, cha của Diệp Lang không muốn ông nối nghiệp đàn nên ông đã tìm thầy dạy hát cho ông để sau này được đứng trên sân khấu biểu diễn. Không phụ lòng cha, Diệp Lang chuyên tâm học hành, không theo chúng bạn chơi bời lêu lổng. Bắt đầu từ những gánh hát lênh đênh trên sông nước với các vai quân sĩ, cận vệ, lính chạy cờ không nói được tiếng nào, cho đến những vai chỉ nói một câu… rồi chết. Cuộc đời nghệ thuật của Diệp Lang bắt đầu sang trang mới sau khi cha ông mất được một năm. Người bạn thân của cha Diệp Lang là soạn giả kiêm ông bầu Nguyễn Huỳnh đã đưa ông về đoàn Hoài Dung - Hoài Mỹ, và cũng chính soạn giả Nguyễn Huỳnh đã đổi tên thật của ông là Dương Công Thuấn thành Diệp Lang (tức con trai Ba Diệp). Và ông đã giữ nghệ danh này cho đến ngày hôm nay. Tài năng ca diễn của nghệ sĩ Diệp Lang không chỉ vang danh trong nước mà cả nước ngoài. Giữa thập niên 80, Diệp Lang là một trong số ít nghệ sĩ được vinh dự sang châu Âu biểu diễn, vai hội đồng Thăng trong vở Đời cô Lựu do ông thủ vai khiến các kiều bào rất ngưỡng mộ.
Trong vai trò kép lão, Diệp Lang đã bao phen “lấy” hết nước mắt của khán giả nhưng cũng không biết bao lần ông khiến khán giả “ghét cay ghét đắng”. Như hồi vở Tiếng hò sông Hậu được quay truyền hình, phát sóng. Có lần ông theo đoàn Sài Gòn 2 về diễn tại An Giang, buổi trưa khi vào chợ mua đồ chay về ăn, một số chị tiểu thương nhận ra bảo: “ông hội đồng Dư ác quá mà cũng biết ăn chay nữa hả?!?” khiến ông… chỉ biết cười trừ. Dù “bị ghét” nhưng ông rất vui vì biết mình đã thể hiện thành công nhân vật. Các vai kép lão của ông phần lớn khi kết thúc đều… qua đời, hình Diệp Lang thường được đưa lên… bàn thờ. Một số người “dị đoan” bảo với ông như thế là xui xẻo, là điềm không tốt nhưng ông cũng mặc kệ. Ông cười “Kép lão như tôi giờ vẫn còn sống thọ đó thôi”. Thật ra, ông cũng đã nhiều lần thoát khỏi “bàn tay tử thần” trong gang tấc. Thời gian Diệp Lang theo cha học tuồng ở đoàn cải lương Kim Thoa, trong một đêm diễn vở Lấp sông Gianh tại rạp hát Nguyễn Văn Hảo (nay là rạp Công Nhân TP.HCM), đoàn bị ném lựu đạn, có hai người trong đoàn thiệt mạng, cha con ông may mắn thoát chết. Năm 2003, khi vừa được Nhà nước phong tặng danh hiệu NSND thì ông cũng phát hiện ra trong người mình đầy bệnh, nào bệnh tim, bệnh huyết áp cao, hẹp động mạch thận, phù động mạch chủ, nhiều lúc hai mắt tự dưng chẳng thấy gì... Có lần vừa diễn xong tại kịch Phú Nhuận, ông ngã quỵ phải đưa vào bệnh viện tưởng không qua khỏi. Nhưng rồi bệnh tật đã không quật ngã được ông, khỏe lại là ông lại bước lên sân khấu, lại ngồi vào ghế Ban giám khảo các cuộc thi… “Đã vương lấy kiếp tằm, còn hơi thở là vẫn còn nhả tơ” - ông bảo thế!
Làm nghệ thuật chân chính không thể làm giàu
Là một nghệ sĩ đa năng: diễn cải lương, đóng kịch, đóng phim, đạo diễn kể cả vai trò quản lý (từng là Trưởng đoàn cải lương 284 danh tiếng) nhưng hiện tại kép lão này vẫn sống đạm bạc trong căn hộ chung cư cũ kỹ. Nhiều lần diễn xong, ngồi taxi về nhà, anh tài xế taxi thắc mắc hỏi sao nghệ sĩ nổi tiếng mà không có xe hơi riêng, nhà ở cái chung cư cũ quá. Diệp Lang cười khề khà nói: “Nghệ sĩ chứ đâu phải doanh nhân mà đi xe này, ở nhà kia. Có người nổi tiếng mà có giàu đâu, như tôi vầy nè…”.
Ông nói thêm: “Tôi làm nhiều, nhưng chỉ đủ sống. Tôi không giàu lên khi đã chấp nhận sống chết với nghệ thuật chân chính. Tuy nhiên, trong cuộc sống gia đình, tôi là người may mắn, bà xã tôi mấy chục năm qua đã cùng tôi “đồng cam cộng khổ”, là điểm tựa vững chắc để tôi chuyên tâm làm nghệ thuật. Các con tôi cũng ngoan ngoãn, hiếu thảo. Tôi nghĩ như thế là đã quá đủ…”. Người mà ông nhắc đến chính là bà Thu Phong, từng là hoa khôi của Trường Gia Long, con của nghệ sĩ nổi tiếng Tô Huệ. Sau khi chia tay với người vợ đầu tiên là nghệ sĩ tài danh Phượng Liên, Diệp Lang về ở chung với soạn giả Hà Triều một thời gian rồi ra tá túc tại rạp Hưng Đạo, rất thiếu thốn. Một hôm, đang tập tuồng cho đoàn Sài Gòn 2, ông gặp bà. Tính Diệp Lang hơi khép kín, ưu tư, nhưng gặp Thu Phong bỗng cởi mở hẳn ra. Thế là yêu nhau, cưới nhau và giữ gìn hạnh phúc cho đến tận ngày hôm nay. Hiện điều ông băn khoăn nhất là điện ảnh đang hồi sinh, kịch nói đang thịnh, chỉ có cải lương thì còn gặp nhiều khó khăn. “Thời gian bị bệnh tật hoành hành, tôi sợ và hốt hoảng vô cùng. Tôi sợ mình không đủ thời gian và sức lực để có thể đưa cải lương trở lại thời hoàng kim. Sức khỏe của tôi hiện đã tạm ổn, tôi tâm niệm sẽ dành trọn quãng đời còn lại cho bộ môn mà mình đã chọn từ thuở lên 10…”.
Song Minh
TS-NSƯT Bạch Tuyết cho biết: “Diệp Lang là một trong số ít những diễn viên, nghệ sĩ mà sự góp mặt trong mỗi tác phẩm là yếu tố quan trọng khẳng định chất lượng nghệ thuật của đêm diễn. Sự nỗ lực nghiêm túc của anh trong từng vai diễn, dù rất nhỏ cũng là một trong cách thể hiện lòng biết ơn với khán giả - những người bỏ tiền mua vé vào rạp xem hát. Khâm phục biết bao của người nghệ sĩ như anh trong thánh đường nghệ thuật cải lương…”.
“Quái kiệt” Tùng Lâm (phải) cùng danh hài Phi Thoàn (ảnh do nhân vật cung cấp)
Trong làng hài của Sài Gòn trước 1975, có một người không cần diễn, chỉ cần bước ra sân khấu là khán giả đã cười rần rần, đó là Tùng Lâm. Năm 1958, lần đầu tiên tham gia đại nhạc hội “Minh tinh quái kiệt”, Tùng Lâm chính thức được quảng cáo là Tiểu quái kiệt Tùng Lâm. Từ đó về sau, ở các lĩnh vực từ hài, kịch, cải lương rồi phim ảnh, hễ có mặt Tùng Lâm là có... cười nghiêng ngả. Chính vì thế, công chúng yêu sân khấu tặng cho Tùng Lâm biệt danh “quái kiệt” và nó đã gắn với tên tuổi của ông đến bây giờ.
Ca sĩ trở thành… hề
Ít ai biết một danh hài thuộc loại “quái kiệt” như Tùng Lâm lại xuất thân là một... ca sĩ có đẳng cấp. Tham gia ca hát từ rất sớm, do có người chị thứ bảy rất giỏi đàn Mandoline nên cứ mỗi lần chị đàn thì Tùng Lâm hát. Năm 12 tuổi, Đài Phát thanh Pháp - Á tổ chức cuộc thi tuyển lựa ca sĩ, Tùng Lâm dự thi và đoạt giải nhất với bài An Phú Đông của nhạc sĩ Lê Bình. Người đoạt giải nhì là Thanh Giang (học trò của quái kiệt Trần Văn Trạch), giải ba thuộc về ca sĩ Bạch Yến (con dâu của GS-TS Trần Văn Khê). Đến năm 1952, sau một thời gian đi hát đám cưới, Tùng Lâm lại đoạt giải nhất cuộc thi tuyển lựa ca sĩ của Đài Phát thanh Sài Gòn với bài Tiếng dân chài của Phạm Đình Chương.
Từ đó, Tùng Lâm luôn được mời hát ở các rạp. Ông cùng với kịch sĩ Vân Hùng, nhạc sĩ Lam Phương hình thành một nhóm tam ca ăn ý với các ca khúc Khúc ca ngày mùa, Nhạc rừng khuya (Lam Phương), Ô mê ly (Văn Phụng), Đoàn lữ nhạc (Đỗ Nhuận), Ngựa phi đường xa (Lê Yên), Khúc nhạc dưới trăng (Dương Thiệu Tước), Thiên thai (Văn Cao)... Ông đến với kịch cũng rất tình cờ, lần ấy, Ban kịch Dân Nam khai trương vở Tàn cơn ác mộng, kịch sĩ Vân Hùng đột ngột đòi trả vai thằng cùi không chịu đóng. Trước tình thế cấp bách, Tùng Lâm xung phong nhận vai này vì bản thân kém sắc vóc, nhân vật này chỉ cần hóa trang, không để lộ gương mặt thật. Vai diễn thành công nên ông được giao tiếp vai cậu chủ trong vở Mua chút tình thương, Vân Hùng vào vai người ở. Nhưng Vân Hùng lúc đó đang cạo đầu trọc không diễn nên vai người ở được giao lại cho Tùng Lâm. Do không chuẩn bị trước, anh mượn cái quần lửng của một nghệ sĩ múa trong đoàn mặc. Mới bước ra sân khấu, khán giả cười rần rần. Sau thành công với vai hài khác trong Cây đàn bỏ quên, Tùng Lâm chính thức chuyển sang hài. Một thời gian sau, ông được mời làm nghệ sĩ chuyển âm (bây giờ gọi là lồng tiếng) các phim Nhật, Ấn Độ cho các hãng Mỹ Phương, Mỹ Vân, Lido… Nhờ đó, ông được mời đóng liên tục các vai hài trong phim Năm hiệp sĩ bất đắc dĩ, Năm vua hề về làng, Tứ quái Sài Gòn, Như hạt mưa sa, Con ma nhà họ Hứa… Theo ông, chọc cho khán giả cười nhiều lúc còn khó hơn làm cho họ khóc. Người nghệ sĩ hài phải biết chắt chiu ngôn từ để không sa vào cái hài vụn vặt, rẻ tiền. Trước đây, mỗi danh hài đều có nét đặc trưng: Văn Chung cười dê, Khả Năng trầm tĩnh, Văn Hường ca vọng cổ, Thanh Việt nhép nhép bộ ria... không ai bắt chước ai. Bây giờ, các em trẻ thường bắt chước điệu bộ, nhóm này ăn cắp mảng miếng của nhóm kia, rồi dung tục, rất dễ “giết chết” hài… Nói về nghệ danh Tùng Lâm, một người bạn của ông bật mí: “Tùng Lâm sinh ra tại Biên Hòa (Đồng Nai), tên thật là Nguyễn Văn Tâm nhưng tại ổng thấp quá nên bạn bè gọi là Tâm Lùn. Ổng thấy tên Tâm Lùn hơi... kỳ kỳ nên đã đọc lái lại là... Tùng Lâm”. Mới nghe qua rất lôgic, hợp tình hợp lý, nhưng thật ra đó chỉ là một tình huống hài trên sân khấu do chính Tùng Lâm “chế” ra chứ Tùng Lâm tên thật là Lâm Ngươn Phẩm, có một người bạn “nối khố” tên Tùng. Khi đi hát, ông đã lấy họ của mình ghép với tên người bạn thân lại thành nghệ danh cho mình.
“Tứ quái Sài Gòn” chỉ còn mỗi Tùng Lâm
Năm 1974, Hãng phim Lido thực hiện bộ phim hài Tứ quái Sài Gòn với các nghệ sĩ là Khả Năng, Thanh Việt, La Thoại Tân, Tùng Lâm đã tạo nên một làn sóng hâm mộ cuồng nhiệt của khán giả. Bộ phim còn được thuyết minh phụ đề bằng nhiều thứ tiếng, phát hành khắp các nước châu Á. Có một kỷ niệm trong quá trình đóng bộ phim này mà Tùng Lâm không bao giờ quên. “Số là tôi vào vai một tay bơi lội rất giỏi, bản thân tôi ngoài đời cũng là một tay bơi kỳ khôi nhưng vì lần ấy, tôi vừa bị gãy tay mới lành, cảnh quay đòi hỏi phải quay đi quay lại nhiều lần nên tôi bị đuối. Lần cuối cùng, tôi bơi một lúc rồi… chìm luôn. Anh bạn Khả Năng diễn chung cứ tưởng tôi muốn làm cho khán giả đang đứng xem cười chơi nên không quan tâm. Đợi mãi không thấy tôi trồi lên anh mới hốt hoảng gọi mọi người xuống tìm. Khi tôi tỉnh dậy thì thấy mình đang nằm trong… bệnh viện. Hú hồn, tôi thoát chết trong gang tấc…” - Tùng Lâm kể.
Nếu như trước đây, Tùng Lâm từng đối mặt với cái chết qua những tình huống khi đóng phim thì từ năm 2005 đến nay, ông đã 4 lần bị đột quỵ vì chứng bệnh cao huyết áp. Một lần khi ông đang lưu diễn ở Điện Bàn (Quảng Nam) phải đưa lên vùng biên giới Lao Bảo (Quảng Trị ) chạy chữa. Lần thứ hai ông ngã xuống khi đang diễn ở Buôn Ma Thuột tưởng không qua khỏi. Lần đột quỵ thứ ba khi ông đang diễn ở Khu du lịch Tân Cảng vào dịp Noel. Lần mới nhất là khi ông cùng đoàn nghệ sĩ Việt Nam sang Mỹ lưu diễn, nhiều kiều bào đã khóc khi chứng kiến cảnh ông nằm viện suốt một tuần không nói một lời. “Nhưng có lẽ tôi cao số nên nhiều lần thoát chết. Nhóm Tứ quái Sài Gòn giờ chỉ mình tôi còn sống…”.
Với 77 tuổi đời, sức khỏe không còn cho phép nên Tùng Lâm rất ít xuất hiện trên sân khấu. Ông dành thời gian để vui chơi cùng con cháu, tập thể dục thể thao đồng thời sáng tác các tiểu phẩm, kịch bản cải lương hài. Nếu như trước đây, danh hài Văn Chung “chết tên” Tư Ếch trong sê-ri cải lương hài Tư Ếch đi Sài Gòn thì Tùng Lâm cũng thế, ngoài danh hiệu “quái kiệt”, ông còn được khán giả thương mến gọi bằng tên thân mật Hai Nhái bởi trong thập niên 1990, ông cũng đã sáng tác và thực hiện một loạt bộ phim video hài: Hai Nhái khoái thịt ngựa, Hai Nhái khoái vợ bé, Hai Nhái khoái rượu đế, Hai Nhái khoái số đề, Hai Nhái kén rể, Hai Nhái bắt cướp... Chuyên chọc cho khán giả cười, nhưng có lần Tùng Lâm đã khóc ròng trong cánh gà sân khấu. Đó là lần ông lỡ ký hợp đồng theo một đoàn tạp kỹ xuống Cần Thơ biểu diễn trong lúc mẹ ông lâm bệnh nặng. Đang diễn thì ông nhận được điện thoại của gia đình báo tin mẹ ông mất. Ông phải nuốt nước mắt chọc cười khán giả, hoàn tất xong lớp diễn ông chạy vội vào hậu trường ôm danh hài Phú Quý khóc ngon lành. Ông chủ đoàn tạp kỹ đã cho xe đưa Tùng Lâm về Sài Gòn ngay trong đêm để kịp lo hậu sự cho mẹ.
Minh Tuyền
Trong sự nghiệp làm “quái kiệt”, Tùng Lâm đã đoạt 4 HCV trong các mùa hội diễn, liên hoan sân khấu hài. Ông cũng là người đã mở lớp dạy nhạc đồng thời lăng xê thành công các gương mặt tên tuổi hôm nay như Trang Thanh Lan, Trang Mỹ Dung, Trang Kim Yến, Trang Kim Phụng, Giang Tử, Phương Hoài Tâm, Phượng Mai…
Cải lương chi bảo Bạch Tuyết năm 1966 (Ảnh do nhân vật cung cấp)
Năm 1963, khi nữ nghệ sĩ Bạch Tuyết vừa nhận Huy chương vàng Triển vọng giải Thanh Tâm trong vở Tàn một kiếp hoa (diễn cùng nghệ sĩ Út Trà Ôn trên Sân khấu Thống Nhất) thì soạn giả Hoa Phượng đã tuyên bố: “Bạch Tuyết là Cải lương chi bảo, cô đào này có biệt tài sáng tạo và óc thông minh, sẽ còn tiến xa hơn nữa nếu diễn vai nào do Hà Triều - Hoa Phượng viết”. Có nhiều người cho rằng Hoa Phượng quá đà khi đưa Bạch Tuyết “lên mây”, nhưng ông chỉ cười: “Cứ xem tới tới thì sẽ thấy lời tôi nói không sai”.
Và quả thật như vậy, sau đó không lâu, trên trang Báo Kịch Trường của ký giả Phong Vân, cái tên Bạch Tuyết đã được đăng kèm với tên gọi Cải lương chi bảo. Ngay lập tức, Cải lương chi bảo Bạch Tuyết được chấp nhận một cách rộng rãi trên các báo khác và trong quần chúng. Danh hiệu này đã đi cùng với Bạch Tuyết và hàng triệu trái tim khán giả hâm mộ nghệ thuật cải lương suốt hơn 40 năm qua…
Vừa vào nghề đã đóng đào chính
Bạch Tuyết tên thật là Nguyễn Thị Bạch Tuyết, sinh ngày 24 tháng 12 năm 1945 tại Khánh Bình - Châu Đốc - An Giang. Từ nhỏ, Bạch Tuyết đã có khiếu ca hát tân nhạc, ngâm thơ, mỗi khi nhà trường có văn nghệ, lúc nào Bạch Tuyết cũng được các thầy cô “chấm” lên trình diễn. Trong thời gian đi học, Bạch Tuyết cùng bạn bè thường kéo nhau vào hậu trường sân khấu xem tập tuồng và cũng để xin hình, chữ ký của thần tượng Thanh Nga. Vừa nhìn thấy Bạch Tuyết, Thanh Nga bất ngờ hỏi: “Em có biết hát không?”. “Dạ thưa, em chỉ biết hát tân nhạc thôi” - Bạch Tuyết bẽn lẽn đáp lời. Thanh Nga mỉm cười nói: “Cưng đi hát đi, chị tin rằng cưng sẽ thành công trong nghề nghệ thuật đó”. Những lời nói khích lệ đó trở thành động lực thúc đẩy Bạch Tuyết bước vào nghiệp cầm ca.
Chính soạn giả Điêu Huyền đã đích thân đến gặp ba của Bạch Tuyết để xin cho chị đi theo đoàn hát. Cả gia đình hai bên nội ngoại nhất quyết ngăn cản vì cho rằng đi hát là “xướng ca vô loài”. Bạch Tuyết vừa khóc vừa nói với ba mình: “Ba cho con đi hát, ngày nào nổi tiếng thì sẽ về, còn thất bại con sẽ tự kết liễu đời mình để không làm hổ danh gia đình…”. Thấy Bạch Tuyết cương quyết quá ông đành phải chiều theo ý con. Lúc đó, soạn giả Điêu Huyền cũng vừa nhận Bạch Tuyết làm con nuôi, và chính vì sự đỡ đầu này mà khi vào đoàn hát, ít nghệ sĩ và nhân viên trong đoàn dám ăn hiếp chị.
Bạch Tuyết vừa bước vào nghề đã may mắn được đóng ngay đào chính, đây là một điều rất hiếm trong nghề cải lương. Số là năm 1961, khi Đoàn Kiên Giang chuẩn bị trình diễn vở tuồng Lá thắm chỉ hồng, cô đào chính đột ngột rời đoàn. Gần tới ngày trình diễn mà đào chính không có, soạn giả Điêu Huyền liền cho Bạch Tuyết thế vào ngay. Ngay buổi diễn đầu, Bạch Tuyết đã làm toàn thể khán giả ngạc nhiên trước lối diễn bi lụy tài tình qua vai cô lái đò Lệ Chi. Khi về Đoàn Thống Nhất diễn với danh ca Út Trà Ôn, tài năng của Bạch Tuyết bật sáng, được trao Huy chương vàng Triển vọng giải Thanh Tâm. Năm 1964, Bạch Tuyết về Đoàn Dạ Lý Hương, do ông bầu Xuân thành lập, chính từ sân khấu này với sự cộng tác của hai soạn giả sáng chói Hà Triều - Hoa Phượng, nhiều vở diễn đã gắn liền với tên tuổi Bạch Tuyết cho đến hôm nay, trong đó vở Nỗi buồn con gái (tức Tần Nương Thất) đã đem về cho Bạch Tuyết giải thưởng: Huy chương vàng Diễn viên xuất sắc giải Thanh Tâm năm 1965.
Năm 1966, bầu Xuân mời được Hùng Cường từ Đoàn Kim Chung về Gánh Dạ Lý Hương. Như cá gặp nước, Bạch Tuyết - Hùng Cường trở thành “cặp sóng thần”, thành công trong nhiều vở tuồng: Bạch Hải Đường, Tuyệt tình ca, Cho trọn cuộc tình, Trăng thề vườn Thúy… Bạch Tuyết “đóng đô” ở Đoàn Dạ Lý Hương liên tục 4 năm mà không hề chuyển đổi sang một đại ban nào khác cho dù có nhiều lời mời trọng vọng và quyền lợi gấp đôi.
Hai mối tình đẹp
Có rất nhiều giai thoại đồn thổi xung quanh chuyện tình cảm Bạch Tuyết với các anh kép diễn chung. Tuy nhiên, mối tình đẹp đầu tiên của chị là với danh thủ Phạm Huỳnh Tam Lang. Năm 1966, Bạch Tuyết đang trong thời kỳ vàng son rực rỡ thì cũng vào năm này, Tam Lang cùng Đội tuyển bóng đá quốc gia dự thi giải Túc Cầu Đông Nam Á tại Mã Lai và đoạt ngôi vị vô địch đem về cho Việt Nam chiếc huy chương vàng. Ba ngày trước lúc Đội tuyển bóng đá miền Nam VN dự Cúp Merdeka 1966, toàn đội bỗng nhận được giấy mời đi xem suất hát của Đoàn cải lương Dạ Lý Hương. Trước giờ kéo màn, đại diện đoàn hát gửi lời cầu chúc đội tuyển “mã đáo thành công”. Cải lương chi bảo Bạch Tuyết bước ra từ cánh gà sân khấu, thay cho câu vọng cổ mùi mẫn là bó hoa tươi thắm đến trao tận tay Phạm Huỳnh Tam Lang khiến danh thủ này phải thốt lên: “Tôi như bị cô ấy hớp hồn khi nhận hoa...”. Đó là lần đầu tiên cả hai gặp nhau và tiếng sét ái tình đã bùng nổ trong tim hai người. Đôi trai tài gái sắc kết hôn năm 1967, nhưng chỉ được ba năm, cuộc tình này đã phải “anh đường anh, tôi đường tôi”. Bạch Tuyết tâm sự: “Hai đứa thương nhau, mà như tuồng cải lương vậy đó. Chúng tôi không có con nên đành phải xa nhau vì anh Tam Lang là người cực kỳ có hiếu với gia đình. Về sau, anh Tam Lang lập gia đình và có một con gái. Hai đứa thương nhau lắm nhưng xa nhau chỉ vì hoàn cảnh thôi. Bây giờ chúng tôi vẫn rất quý nhau”.
Bạch Tuyết cũng có một con trai với người chồng về sau, Charles Đức, quốc tịch Pháp, có đến hai bằng tiến sĩ kinh tế ở Pháp và tiến sĩ luật học ở Hà Lan. 29 tuổi, Bạch Tuyết đã thực hiện được điều mơ ước, đó là làm mẹ. Đam mê làm mẹ khiến Bạch Tuyết tạm ngưng các hoạt động trình diễn suốt từ năm 1972 đến năm 1979. Chị cho biết: “Lúc mới gặp gỡ, anh ấy buông lời làm tôi bực tức: Cô là người quá tên tuổi trong lòng công chúng, nhưng trình độ thì chưa xứng đáng với cô. Đó là bi kịch của người nghệ sĩ. Tôi muốn tạo điều kiện để cô lấp đầy khoảng trống kiến thức ấy. Nghe xong, tôi choáng váng vì cảm thấy bị xúc phạm. Nhưng ngẫm nghĩ lại, tôi thấy anh là người trung thực ngay thẳng. Lúc này, tôi nhận ra một phần giá trị của con người là học vấn”. Năm 1998, Bạch Tuyết tốt nghiệp Khoa Đạo diễn ở Viện Hàn lâm sân khấu và điện ảnh tại Sophia - Bungari. Sau đó, chị bảo vệ thành công luận án tiến sĩ tại Viện Hàn lâm Hoàng gia kịch nghệ Anh quốc. Chị tâm sự: “Tôi cảm ơn chồng tôi, dù bây giờ cả hai chỉ còn là bạn. Chính anh đã định hướng cho tôi một lối đi mà trước đây mẹ tôi từng ao ước, đó là hướng về tri thức. Một con đường đi mãi không bao giờ đến đích”.
Lê Quang Thanh Tâm
Hồi nhỏ, đọc truyện cổ tích, trong truyện có viết là người hiền không bao giờ chết, vì sẽ được bà tiên tới cứu. Nhưng mà mẹ Cải lương chi bảo Bạch Tuyết quá hiền, tại sao chết mà không ai cứu. Điều đó làm cho chị suy nghĩ hoài, cho đến một lúc, gặp được giáo lý của Phật giáo, thông qua giáo lý nhà Phật, Bạch Tuyết đã tìm được câu trả lời cho những bế tắc của mình.
So với các ca sĩ cùng thời như Trang Mỹ Dung, Lan Ngọc, Hồng Vân, Hoàng Oanh… thì nữ ca sĩ Giao Linh gặp rất nhiều may mắn trên con đường đến với nghệ thuật. Chính thức bước vào con đường ca hát chuyên nghiệp năm 1966 (17 tuổi), lập tức Giao Linh đã được giới chuyên môn và khán giả mệnh danh là “Nữ hoàng sầu muộn” bởi trên sân khấu, hiếm khi thấy chị nở nụ cười, giọng hát thì trầm buồn, nức nở giống như tâm trạng những nhạc phẩm mà chị trình bày.
Chính giọng hát của Giao Linh đã làm cho một số nhạc phẩm như Lòng mẹ (Y Vân), Thầm kín (Phượng Linh), Mười năm tái ngộ (Thanh Sơn), Tiếng xưa (Dương Thiệu Tước)… trở nên nổi tiếng. Cho đến hôm nay, nhắc đến ca sĩ Giao Linh, khán giả vẫn dành cho chị một tình cảm yêu mến nồng nàn. Đó chính là phần thưởng vô giá mà chị sở hữu được trong suốt hơn 40 năm đi hát.
Gắn liền với âm nhạc và… khói phở
Ca sĩ Giao Linh sinh năm 1949 tại Sài Gòn trong một gia đình rất nghèo, có 7 anh chị em nhưng không có ai hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật. Từ nhỏ, chị đã rất đam mê ca hát. Thời đi học, chị vẫn tiếp tục với niềm đam mê ấy. Năm 1966, trong một buổi giao lưu văn nghệ, tình cờ chị gặp nhạc sĩ Thu Hồ, nghe giọng hát của chị, anh bảo “Ngày mai lên hãng Continental thử giọng”. Hôm sau, chị và mẹ đón xích lô đến đó. Thật bất ngờ, Giao Linh đã gây sửng sốt cho ông chủ hãng bởi chất giọng quá đặc biệt. Không một chút đắn đo, ông chủ hãng quyết định ký hợp đồng thâu đĩa độc quyền với chị trong 3 năm. Trong suốt thời gian này, chị đã thu âm hàng loạt các ca khúc trong các đĩa tổng hợp cùng với các ca sĩ đàn anh đàn chị đi trước. Tên tuổi ca sĩ Giao Linh nhanh chóng bừng sáng trên vòm trời nghệ thuật. Chị tâm sự: “Tôi gắn bó với dòng nhạc trữ tình là một duyên nợ, với lại chất giọng của tôi cũng phù hợp với những ca khúc như thế. Năm 1970, hết hợp đồng với hãng Continental,lần đầu tiên tôi thâu một đĩa hát riêng của mình mang tên Sơn ca 6 và cũng từ đó, tôi mở rộng hợp đồng sang thâu băng đĩa cho các hãng khác… Cho đến bây giờ, tôi vẫn nhớ lời dạy của nhạc sĩ Thu Hồ “Nghề ca hát này đa đoan lắm, có tài mà thiếu đức là không tồn tại lâu dài…”. Tôi nghĩ mình có được ngày hôm nay chính là luôn luôn khắc ghi câu nói ấy”. Bật mí về nghệ danh Giao Linh của mình, chị cho biết: “Ba má đặt tên thật cho tôi là Đỗ Thị Sinh, khi mới chập chững bước vào nghề, một người bạn gái rất thân đã nói với tôi “Nếu đi hát thì nên lấy tên là Giao Linh, nghệ danh này sẽ gặp nhiều may mắn cho cậu đấy”. Thế là không cần suy nghĩ, tôi đồng ý ngay và đã dùng nghệ danh ấy cho đến nay. Tôi và người bạn ấy đã mất liên lạc suốt mấy chục năm liền, không ngờ một dịp tình cờ đã được gặp lại. Tôi rất vui vì cô bạn ấy cũng có một đứa con đặt tên là Giao Linh”. Sau ngày giải phóng, chị cùng gia đình sang định cư ở Canada. Thời gian đầu, cả gia đình chị sống bằng nghề kinh doanh quán phở Linh. “Ngày trước, gia đình tôi rất nghèo, má tôi với gánh chè đi bán khắp nơi để nuôi con. Những hôm trời mưa bán ế, cả nhà phải ăn chè thay cơm. Có lần tôi nói với má “Sao má không bán thứ gì khác cho tụi con ăn không ngán”. Sau đó, má tôi chuyển sang bán bánh cuốn rồi bán phở… Ở Canada trước đây, giới nghệ sĩ - ca sĩ Việt Nam hầu hết đều biết đến quán phở Linh, cứ 10 người là đã có 8 người là khách thường xuyên của quán. Khi trở về Việt Nam ca hát và sinh sống, tôi cũng đã mở quán phở Giao Linh trên đường Cách Mạng Tháng Tám - quận 10 - TP.HCM. Má tôi vui lắm bởi tôi đã tiếp tục việc làm của má. Tuy nhiên, do mặt bằng không thuận lợi nên sau hai năm hoạt động, tôi đã tạm ngưng quán. Trong tương lai, tôi sẽ mở lại quán phở bởi cuộc đời tôi không thể thiếu âm nhạc và… khói phở” - Giao Linh cho biết như thế.
và bây giờ
Chuyện tình không “sầu”
22 năm qua, bên cạnh Giao Linh lúc nào cũng có một người như hình với bóng, vừa là “tài xế trung thành”, vừa quản lý show diễn kiêm luôn bấm đĩa. Đó không ai khác hơn chính là ông xã của chị - anh Võ Văn Sang vốn là một kỹ sư xây dựng, sau đó đã thành lập công ty lăng xê nhiều ca sĩ đồng thời biên tập sản xuất băng đĩa nhạc. Theo ca sĩ Giao Linh thì chị và anh đúng là “duyên tiền định”. Cả hai quen nhau từ nhỏ, chơi chung trong một nhóm bạn thân nhưng không hề để ý đến nhau. Sau đó, mỗi người có một hướng đi riêng. Chị thì theo đuổi nghề hát để thỏa mãn niềm đam mê và nuôi sống cả gia đình. Còn anh thì cưới vợ rồi sang Mỹ định cư. 15 năm sau, anh chị tình cờ gặp lại nhau tại Mỹ, lúc đó anh đã có 6 đứa con và vừa ly dị, còn chị thì vẫn “cô đơn mình ên” mặc dù đã bước vào tuổi 37. Chị cho biết: “Ngày tôi công bố chuyện tình cảm của mình, gia đình và bạn bè tôi đều ngăn cản bởi anh là người đàn ông hào hoa, khá bay bướm, thêm một điều nữa là sợ tôi sẽ khổ với các con chồng. Nhưng tôi bất chấp tất cả. Cưới nhau rồi, tôi mới thấy những điều người ta đồn đại về anh là hoàn toàn sai. Anh yêu thương, chăm sóc tôi và các con rất chu đáo. Anh thông cảm, động viên, song hành cùng tôi trên con đường nghệ thuật. Đến cả chiếc áo dài đi diễn, thậm chí phấn son, anh cũng mua cho tôi. Đặc biệt, anh rất lo lắng cho ba mẹ và các em tôi. Ba lần tôi sinh con cho anh thì ba lần đều hỏng. Dù có buồn nhưng tôi cũng còn hạnh phúc vì được làm mẹ của 6 đứa con anh, cháu nội của tôi năm nay đã được 19 tuổi”.
Thêm một câu chuyện vui với Giao Linh là đi hát ở đâu, khán giả cũng hỏi có phải danh ca Tuấn Vũ là con của chị. Thật ra, Tuấn Vũ nhỏ hơn Giao Linh 10 tuổi. Trước khi đi hát từng xem Giao Linh là thần tượng của mình. Năm 1980, Tuấn Vũ chập chững bước chân vào con đường ca hát và tìm đến thần tượng Giao Linh để xin được “thọ giáo”.Năm1985, CD song ca Giao Linh - Tuấn Vũ chủ đề Đôi mắt người xưa phát hành tại Mỹ bán chạy như tôm tươi. Các album song ca tiếp theo cũng thành công không kém. Cũng chính vì sự ăn ý và tình chị em thân thiết này mà nhiều người hiểu lầm họ là mẹ con. Vừa qua, chị và Tuấn Vũ đã có dịp tái ngộ nhau ở một số phòng trà ca nhạc tại Việt Nam. Sức hút của họ với khán giả vẫn còn nguyên vẹn…
Song Minh
Dù có biệt danh là Nữ hoàng sầu muộn nhưng chuyện tình cảm của chị không hề “sầu”. Chị có thể hát cho chồng nghe cả ngày và anh cũng có thể ngồi cả ngày nghe chị hát, nhiều bài anh nghe cả ngàn lần vẫn không chán. Đó cũng là điều khiến chị luôn ý thức giữ gìn chất giọng để hát cho khán giả cũng như cho chồng nghe.
Nếu Khả Năng được gọi là Hề mập, Thanh Việt là Hề râu thì Thanh Hoài bị “chết tên” Hề nhựa bởi ông có giọng nói nhừa nhựa rất đặc biệt. Đó cũng là nét độc đáo, riêng biệt nhất của danh hài Thanh Hoài mà khi ông tham gia đóng phim, không ai có thể lồng tiếng thay cho ông được.
Chất hài bẩm sinh
Ông tự nhận mình như thế. Thanh Hoài tên thật là Đinh Tiến Hoài, sinh năm 1934 tại Hà Nội trong một gia đình có bố là một hiệu trưởng. Hồi còn đi học, bất kỳ chương trình văn nghệ nào của trường tổ chức ông cũng đều tham gia, mà toàn là diễn những vai hài. Riết rồi bạn bè, thầy cô trong lớp hễ nhìn thấy mặt ông là tự nhiên… tức cười. Sau khi bố qua đời năm 1952 thì năm 1954, ông và mẹ quyết định vào Nam lập nghiệp. Ông đã tìm gặp “quái kiệt” Ba Vân xin “thọ giáo” làm đệ tử. Năm 1955, ông chính thức bước chân vào con đường nghệ thuật chuyên nghiệp với nghệ danh Thanh Hoài. Một người bạn của ông khuyên, muốn làm hề nổi tiếng thì phải có độc chiêu riêng. Cả hai ngồi suy nghĩ cả ngày mà vẫn chưa nghĩ ra độc chiêu nào, bỗng lúc ấy, có người chọc giận, Thanh Hoài tức tối la hét mà cái giọng Bắc cứ nhừa nhựa. Người bạn vỗ đùi, hí hửng: “Độc chiêu là giọng nói đây rồi Hoài ơi!”. Và cũng nhờ thế mạnh này, ông dần dần được khán giả chú ý.
Năm 1967, Đài truyền hình chọn phát sóng là vở kịch Lão hà tiện của soạn giả Ngọc Ngân phóng tác theo vở kịch L’Avare của Molière. Trong vở này, Thanh Hoài được giao đóng vai chính Cả Keo. Chính vai diễn này đã giúp tên tuổi của ông bật sáng, đi đến đâu, khán giả cũng gọi ông bằng cái tên là “Cả Keo” đầy sự ngưỡng mộ. Sau đó, các hãng phim đua nhau mời ông đóng các bộ phim hài: Tứ quái Sài Gòn, Năm hiệp sĩ bất đắc dĩ, Bốn thủy thủ sợ ma, Triệu phú bất đắc dĩ, Anh hùng sợ vợ, Con ma nhà họ Hứa... Bộ phim “đình đám” nhất của Thanh Hoài là Năm vua hề về làng của đạo diễn Lê Mộng Hoàng. Với nhân vật Anh hùng sợ nước đã giúp ông dẫn đầu danh sách khán giả bình chọn “Vua hề hay nhất”. Ông cho biết: “Bạn diễn ăn ý với tôi nhất là Hề râu Thanh Việt. Một vài lần Thanh Việt bị bệnh, một mình tôi lên sân khấu bỗng thấy hụt hẫng, trống vắng, lớp diễn không đạt hiệu quả cao. Trước giải phóng, ở miền Nam hình thành 4 cặp hài: Thanh Hoài - Thanh Việt, Phi Thoàn - Khả Năng, Tùng Lâm - Xuân Phát, Văn Chung - La Thoại Tân. Tất cả đều ngang tài, ngang sức, không ai đố kỵ ai, cùng nhau sáng tạo ra những mảng miếng riêng để chinh phục khán giả. Trong số này hiện nay, chỉ còn có tôi, Tùng Lâm và Văn Chung là còn sống…”. Sau năm 1975, Thanh Hoài được giao phụ trách chương trình Gia đình bác Tám trên Đài Phát thanh Long An rồi về làm Trưởng phòng Văn Thể Mỹ cho Xí nghiệp Đánh cá Côn Đảo. Năm 1990, Thanh Hoài làm cán bộ thuộc Sở VHTT Bà Rịa - Vũng Tàu. Trong thời gian từ năm 1991-1995, ông chỉ tham gia đóng phim video hài (khoảng 200 bộ phim) rồi tạm ngưng hẳn hoạt động nghệ thuật.
Gừng càng già càng cay
Năm 2000, tình cờ gặp nghệ sĩ Hồng Vân tại nhà Tùng Lâm, với sự thuyết phục của Hồng Vân, Thanh Hoài đã tái ngộ khán giả TP.HCM trên Sân khấu Kịch Phú Nhuận, vai cụ cố Hồng trong vở Số đỏ do NSND Doãn Hoàng Giang đạo diễn. Sau 25 năm không xuất hiện trên sân khấu, lần “tái xuất giang hồ” này khiến ông hồi hộp vô cùng, không biết khán giả có còn ái mộ mình như xưa nữa không. Xuất diễn đầu tiên ở Nhà hát TP, ông vừa bước ra khán giả đã xì xào và dành những tràng pháo tay nồng nhiệt. Lúc đó, ông mới thở phào nhẹ nhõm và cảm thấy “duyên nghề của mình vẫn còn”. Số đỏ đã “sống” trên Sân khấu Kịch Phú Nhuận suốt 3 năm liền, góp phần cho sự thành công đó chính là ông. Câu nói cửa miệng “Biết rồi, khổ lắm, nói mãi!” và lối diễn hài rất có duyên của lão nghệ sĩ Thanh Hoài đã để lại trong lòng khán giả những ấn tượng khó phai. Một đôi lần ông bị bệnh, Hồng Vân quyết định hủy xuất diễn bởi không ai có thể đóng thế vai cụ cố Hồng hay bằng ông được. Sau đó, ông tiếp tục cộng tác với Kịch Phú Nhuận qua nhiều vở hài kịch khác. Đặc biệt là vở cải lương hài Ngao Sò Ốc Hến, đoạn Lý trưởng (do ông thủ diễn)… hát vọng cổ, khán giả tán thưởng nồng nhiệt bởi cách ca vọng cổ cũng “nhừa nhựa”, đứt quãng có một không hai. Ông kể: “Hồi trước giải phóng, lúc đầu tôi đâu có ca cải lương được nên phải nhờ Tùng Lâm tập giúp, rồi dần dần cũng hát được những đoạn ngắn. Khi cùng với Văn Chung, Thanh Việt về hát ở Đoàn Dạ Lý Hương của anh bầu Xuân thì vui lắm, mỗi lần tôi chuẩn bị ca là Thanh Nga, Út Bạch Lan ở hai bên cánh gà bắt nhịp giùm, còn nhạc công thì đệm guitar “từng từng” cho tôi vào. Vậy mà cũng được khán giả vỗ tay rần rần…”.
Ngoài giọng nói nhừa nhựa, Thanh Hoài còn có vật bất ly thân là cặp kính trắng. Một kỷ niệm vui trong lần tham gia bộ phim Rùa vàng - rùa bạc, ông được giao đóng vai nhà vua. Khi diễn, vì là phim cổ tích phục vụ thiếu nhi nên đạo diễn Lê Lộc vẫn để cho ông đeo cặp kính trắng. Quay được ngày đầu, về xem lại ông thấy... kỳ quá. Vì thế sau đó, không ngại cực khổ, ông đề nghị quay lại vì: “Thời xưa, nhà vua làm gì có kính mà đeo, không khéo trẻ con nó bắt lỗi thì nguy”. Sự nghiêm túc, sáng tạo trong nghề của ông luôn được các diễn viên trẻ kính trọng, noi gương. NS Hồng Vân cho biết: “Chú Thanh Hoài không bao giờ câu nệ vai lớn, vai nhỏ mà đã nhận vai rồi thì chú luôn đưa ra nhiều ý tưởng độc đáo cho nhân vật của mình cũng như cho bạn diễn. Những ngày tập tuồng, bao giờ chú cũng đến rất sớm. Các xuất diễn cũng thế, chưa bao giờ tôi phải lo chuyện chú đến trễ cả…”. Theo ông: “Cái hài bây giờ và ngày xưa rất khác nhau. Hài ngày xưa ít có kịch bản, chỉ có anh em hội ý với nhau ra diễn nhưng nghiêm túc và sâu sắc lắm, đi sâu vào lòng người. Hai - ba năm sau khán giả nhắc tới vẫn còn cười. Hài bây giờ có kịch bản nhưng nhiều diễn viên trẻ muốn làm nổi nên cương bậy, sa đà, đôi khi khiến khán giả khó chịu. Tôi nghĩ các em phải “chuẩn” lại, phải có cái nhìn về hài một cách toàn diện và “sạch sẽ” hơn…”. Hiện, ông sống rất thanh đạm, an nhàn cùng vợ và hai con trong ngôi nhà yên tĩnh đường Cô Giang, quận Phú Nhuận – TP.HCM. Ngoài việc thỉnh thoảng đóng kịch, ông còn tham gia các hoạt động từ thiện xã hội, đi diễn phục vụ và tặng quà cho người nghèo, trẻ em mồ côi, khuyết tật ở các mái ấm tình thương... Ông muốn đem lại tiếng cười nhằm giúp cuộc sống của những người kém may mắn có ý nghĩa hơn, tốt đẹp hơn.
Bài, ảnh: Hiệp Thanh
Thanh Hoài bật mí: “Cho đến giờ, tôi vẫn xem anh Ba Vân là người thầy số một của tôi. Tôi may mắn được anh đỡ đầu, có cơ hội đóng chung với anh nhiều bộ phim nên tôi học hỏi được rất nhiều kinh nghiệm. Có thể nói, anh là người anh cả, bậc thầy của nghệ thuật sân khấu hài, luôn nghiên cứu tìm ra những lối diễn xuất, lời thoại hay nhất cho bản thân và truyền thụ kiến thức ấy lại cho thế hệ đi sau”.
“Ngôi sao điện ảnh Á Châu” Kiều Chinh năm 1969. Ảnh: T.L
Với vẻ đẹp rất “cinema”, cộng với khả năng Anh ngữ lưu loát, Kiều Chinh là một gương mặt nổi bật của màn ảnh Sài Gòn trước và sau giải phóng được giới chuyên môn trong nước cũng như ngoài nước đánh giá rất cao. Đặc biệt, bà là nữ diễn viên Việt Nam tham gia nhiều bộ phim quốc tế nhất, đoạt nhiều giải thưởng nhất đồng thời được mệnh danh là “Ngôi sao điện ảnh Á Châu”.
Cô gái Bắc thành danh tại Sài Gòn
Kiều Chinh tên thật là Nguyễn Thị Chinh, sinh năm 1937 tại Hà Nội. Mẹ mất sớm, bà sống với bố cùng người anh trai và chị gái trong hoàn cảnh gia đình khó khăn. Năm 1945, cô nữ sinh Hà Nội từ giã những con đường hoa sữa, hàng sấu già thân yêu theo gia đình người bạn của bố di cư vào miền Nam. Đúng vào năm 18 tuổi, nhan sắc rực rỡ nhất, bà tình cờ được nhóm làm phim của đạo diễn Lê Dân phát hiện trong một buổi tiệc tại nhà hàng Continental và bắt đầu đóng bộ phim đầu tiên Hồi chuông Thiên Mụ do hãng Tân Việt sản xuất với nghệ danh là Kiều Chinh. Bộ phim này được thực hiện gần hai năm trời mới công chiếu. Vẻ đẹp của cô gái Bắc vào nhân vật là một sư nữ Như Ngọc ngay lập tức được công chúng ái mộ và đón nhận nồng nhiệt. Hàng loạt các bộ phim khác đến với bà như một giấc mơ: Mưa rừng, Ngàn năm mây bay, Chờ sáng, Chiếc bóng bên đường, Hè muộn… Đặc biệt là bộ phim Từ Sài Gòn đến Điện Biên Phủ của hãng phim Mỹ Vân diễn với Thẩm Thúy Hằng, Đoàn Châu Mậu, Lê Quỳnh… đã giúp bà đoạt giải thưởng Nữ diễn viên xuất sắc nhất năm 1969. Phong cách diễn của Kiều Chinh rất bình dị và đơn giản, bà mang vào điện ảnh những suy nghĩ, quan sát từ cuộc đời nên diễn xuất rất nhẹ nhàng, diễn như không diễn. Với vốn tiếng Anh lưu loát, đó là lợi thế của Kiều Chinh so với các bạn diễn viên nữ cùng thời khi có các đoàn làm phim nước ngoài cần tìm diễn viên cho phim của mình. Năm 1968, Kiều Chinh đóng phim Destination Việt Nam và trở thành quốc khách của Philippines, đóng phim Chuyện năm Dần (Year of the Tiger) do Mỹ sản xuất với nam tài tử nổi tiếng Marshall Thompson. Năm 1971, Kiều Chinh đến Ấn Độ để tham gia vai diễn trong bộ phim Inside out do Mỹ sản xuất, bà đã được vinh dự tiếp đón như một nàng công chúa thực sự. Kiều Chinh đóng vai công chúa Ấn Độ Kamar Souria. Bạn diễn chính với Kiều Chinh là hai nam diễn viên nổi tiếng thời bấy giờ: Rod Perry (Mỹ) và Dev Anand (Ấn Độ). Sự kiện Kiều Chinh làm công chúa Ấn đã gây nhiều sự bàn tán và phẫn nộ của công nghệ giải trí Ấn. Bởi họ có tự ái riêng khi người đóng vai công chúa không phải là diễn viên bản xứ. Năm này, bà trở thành tài tử khả ái nhất trước 400 diễn viên đại diện cho nhiều quốc gia tham gia Liên hoan điện ảnh Á Châu lần thứ 17. Vinh quang đã đưa Kiều Chinh đến với nhiều liên hoan phim quốc tế khác tại Tây Đức, Hồng Kông, Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, Singapore, Thái Lan… Năm 1973, bà đoạt giải Nữ diễn viên xuất sắc nhất của Đại hội Điện ảnh Á Châu tại Đài Bắc.
Vươn lên để tồn tại nơi xứ người
Sau năm 1975, Kiều Chinh sang định cư tại Canada, bỏ tất cả những hào quang và danh vọng của một “Ngôi sao Á Châu”, bà phải vươn lên trong khó khăn để tồn tại. Kiều Chinh làm việc rất cực khổ cho một trại nuôi gà, lao động tay chân bình thường như bao người phụ nữ khác với mức lương 2 đô la Canada một giờ. Trong thời gian này, Kiều Chinh vẫn cố gắng tìm cách liên lạc với các tài tử ở Hoa Kỳ mà bà đã có dịp quen biết trước đây. Cuối cùng, bà liên lạc được với nữ tài tử Tippi Hedren và nữ tài tử này đã bảo lãnh bà sang Hoa Kỳ định cư. Tại đây, Kiều Chinh lại phải làm lại từ đầu, nhưng lần này là một sự thử thách lớn lao trước cánh cửa Hollywood đang hé mở cho bà. Khởi sự với bộ phim truyền hình nổi tiếng Mash, kế tiếp là các phim Welcome home, The letter… Năm 1993, bộ phim The Joy Luck Club của Hollywood được tung ra thị trường, lập tức được tất cả mọi giới chú ý đến. Vai Suyuan đã đưa Kiều Chinh trở thành diễn viên gốc Á duy nhất có tên trong danh sách 50 diễn viên làm khán giả rơi lệ nhiều nhất trong lịch sử điện ảnh, xếp thứ 22/50 do Entertainment Weekly số ra ngày 28-11-2003 bình chọn.
Trong bộ phim Face, Kiều Chinh đóng chung với các tài tử danh tiếng của Trung Hoa nhưng chỉ riêng bà đoạt giải thưởng Diễn xuất đặc biệt của Đại hội Điện ảnh quốc tế “Women’s Film Festival” tại Italy vào tháng 3-2003.
Năm 2005, Kiều Chinh tiếp tục nhận được giải thưởng danh giá America Heritage Award, Nhật báo OC Register đã có bài viết về sự nghiệp điện ảnh của người tài tử Mỹ gốc Việt này với sự ngưỡng mộ và khâm phục đặc biệt.
Hiện, Kiều Chinh có một cuộc sống bình yên bên cạnh ba người con và các cháu thành đạt trong một ngôi nhà gỗ thô, khiêm tốn “rất Việt Nam” được xây dựng theo kiểu cổ của đồng bằng Bắc Bộ ngay giữa thành phố Garden Grove của Mỹ (khung cửa gỗ, khu vườn nhiều loại cây nhiệt đới, những pho tượng Phật lớn và nhỏ nằm chính diện trong sân). Bà cho biết: “Mặc dù sống tha hương nhưng trong lòng tôi vẫn luôn hướng về nơi chôn nhau cắt rốn. Trong ngôi nhà thân thương của mình, tôi cho trưng bày một trống đồng lớn để nhắc nhở với con cháu mình là người Việt Nam, con cháu của Vua Hùng. Ngoài ra, tôi còn treo rất nhiều bức tranh do các họa sĩ nổi tiếng của Việt Nam đã vẽ tặng tôi như: nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, Nguyễn Cung, Chóe… cùng những hình ảnh kỷ niệm cả một quãng thời gian dài tham gia điện ảnh…”. Rất nhiều lần, bà đã cùng với phái đoàn từ thiện người Mỹ trở về Việt Nam xây dựng một số trường học cho học sinh nghèo tại Hà Nội cũng như các chuyến công tác xã hội tại TP.HCM. Bên cạnh đó, bà còn xuất hiện trong nhiều hoạt động cộng đồng do các kiều bào tại Mỹ tổ chức: làm giám khảo trong các cuộc thi nghệ thuật, hoa hậu, liên hoan phim... Kiều Chinh cũng vừa phát hành tập sách dày 126 trang nhiều hình ảnh tuyệt đẹp ghi lại tiểu sử, toàn bộ hoạt động nghệ thuật của bà nhân kỷ niệm 50 năm bà bước vào nghề điện ảnh.
Lê Quang Thanh Tâm
Trong một chuyến về thăm quê hương gần đây, tại nhà của “Người đẹp Bình Dương” Thẩm Thúy Hằng, bà tâm sự: “Tôi rất vui vì sự phát triển vượt bậc của nền điện ảnh Việt Nam hiện nay. Lửa đam mê nghệ thuật trong tôi vẫn còn “cháy” rất cao. Tôi mong có dịp nào đó sẽ về và tham gia đóng phim tại Việt Nam - nơi đã tạo ra một Kiều Chinh như ngày hôm nay…”.