Cầm ca tân điệu là quyển sách làm nền tảng cho sự định hình và phát triển của đờn ca tài tử Nam Phần
Đờn ca tài tử Nam phần là dòng nhạc hình thành và phát triển từ cuối thế kỷ 19, đờn ca tài tử bắt nguồn từ nhạc lễ, nhã nhạc cung đình Huế và văn học dân gian.
Là loại hình nghệ thuật dân gian đặc trưng của Nam phần, đờn ca tài tử được người dân, thanh niên nam nữ nông thôn Nam phần hát ca sau những giờ làm việc chăm chỉ cật lực.
Xuất hiện hơn 100 năm trước, đờn ca tài tử được diễn tấu với ban nhạc gồm bốn loại là đàn kìm, đàn cò, đàn tranh và đàn độc huyền.
Về sau nầy, có cách tân bằng cách thay thế độc huyền cầm bằng cây guitar phím lõm.
Trong bối cảnh cuộc sống của người dân Nam phần, loại âm nhạc nầy được xem là là loại nhạc thính phòng thường trình diễn trong phạm vi không gian tương đối nhỏ như trong gia đình, tại đám cưới, đám giỗ, sinh nhật, trong các lễ hội.
Sau khi thu hoạch mùa vụ, đờn ca tài tử thường được biểu diễn vào những đêm trăng sáng ở xóm làng.
Nhưng để cho đờn ca tài tử hình thành và phát triển như một loại hình nghệ thuật không chỉ mang tính chất dân gian, mà còn mang tính “hàn lâm, bác học”, không thể quên công lao của tác giả Trần Phong Sắc (Đằng Huy) cùng với nhạc sĩ Lê Văn Tiếng (Cử Thiện) trong việc biên soạn quyển sách “Cầm ca tân điệu” in tại nhà in Joseph Nguyễn văn Viết – Sài Gòn , năm 1926.
Bởi lẽ hầu hết những cuốn sách, hoặc tài liệu, ấn phẩm sưu tầm được trước đó, bài bản đờn ca tài tử chưa có sự phân loại hơi, điệu, câu cú, lớp lang gì cả.
Nhờ có quyển sách, các bài hát đờn ca tài tử ưa được sắp xếp thành hệ thống các điệu thức như Bắc, Lễ, Nam, Oán và các hơi như Xuân, Ai, Đào, Ngự.
Tương truyền qua các thế hệ nghệ nhân học trò của nghệ nhân nhạc sư Nguyễn Quang Đại (tục danh Ba Đợi) xuất thân từ nhạc cung đình Huế.
Khi vua Hàm Nghi xuất bôn, những người nầy theo phong trào Cần vương vào miền nam dạy nhạc, ở vùng Cần Đước Cần Giuộc, Sài Gòn, Chợ Lớn.
Vào khoảng những năm đầu thập niên 20 của thế kỷ 20, nhạc sư Ba Đợi, cùng với các nhạc sư tiền bối tên tuổi vùng nầy như các ông Sâm, Hồ, Ngô, Đạo đã tổ chức cuộc họp với các các nhạc sư, nhạc sĩ nổi tiếng đương thời cả hai miền Đông, Tây Nam Kỳ Lục Tỉnh.
Tại nhà ông Tư Trì ở làng Tân Thành, quận Cần Đước, tỉnh Chợ Lớn (nay thuộc xã Tân Lân, huyện Cần Đước, tỉnh Long An), các ông đã trao đổi về chuyên môn, đi đến thống nhất hệ thống đờn ca tài tử như Bài, Bản, Hơi, Điệu, Lớp lang, Câu cú, Nhịp nhàng.
Trên cơ sở đó các nhạc sư đã cho ra đời hệ thống hai mươi bài bản Tổ và nhiều bài bản lớn, nhỏ, vắn, dài khác, hình thành nhạc mục Đờn ca tài tử Nam phần và sân khấu Cải Lương Nam phần.
Những bài bản nầy được nghệ nhân nhạc sư Lê văn Tiếng (người quận Thủ Thừa, tỉnh Tân An) sưu tầm ghi chép đầy đủ.
Soạn giả Trần Phong Sắc (tỉnh Tân An) là người soạn lời, từng câu, từng lời ca đều trùng khớp với chữ nhạc, rất dễ đờn ca đối với những người mới học.
Mở đầu quyển sách, chẳng những các tác giả có lời tiểu dẫn nêu rõ mục đích, yêu cầu, là ngoài việc hệ thống hóa Bài, Bản mang tính học thuật, đã được các nhạc sĩ, nhạc sư thống nhứt, mà còn đề cập ý nghĩa nội dung giáo dục đạo đức gia đình và xã hội của môn âm nhạc dân tộc cổ truyền nầy.
Kế đến là phần hướng dẫn, có hình minh họa trên cây đờn Kìm thật chi tiết, tỉ mỉ.
Từ cách lên dây theo thang âm ngũ cung:
Hò, Xự, Xang, Xê, Cống.
Rồi các loại dây tương ứng với các giọng điệu, các loại nhịp như:
Nhịp Trường canh, nhịp Song lang, nhịp Nội, nhịp Ngoại…
Cho đến:
“Cách đặt bài ca thì cần phải tùng theo (tuân theo) dấu của chữ đờn…
Phần còn lại của quyển sách gồm 60 bản nhạc, in song hành với 60 bài ca trên từng trang sách, tuần tự theo hệ thống.
Trước tiên là 20 bản Tổ gồm:
– Sáu Bắc (Lưu thủy, Phú lục, Bình bán, Xuân tình, Tây thi, Cổ bản)
– Bảy Lễ (Xàng xê, Ngũ đối thượng, Ngũ đối hạ, Long đăng, Long ngâm, Vạn giá, Tiểu khúc)
– Bốn Oán chánh (Tứ đại oán, Phụng hoàng, Giang nam, Phụng cầu hoàng)
– Ba Nam (Nam xuân, Nam ai, Đảo ngũ cung)
Và bốn mươi bản còn lại đến cuối quyển sách là những bài bản khác
“Cầm ca tân điệu” ra đời đã nhanh chóng trở thành quyển sách gối đầu giường của giới nghệ nhân nhạc sĩ đờn ca tài tử và sân khấu cải lương khắp Nam kỳ lục tỉnh.
Từ đó trở đi quyển sách có vai trò nền tảng căn bản, để các thế hệ hậu bối vừa luyện tập, vừa sáng tác bổ sung ngày càng hoàn thiện danh mục bài bản âm nhạc đờn ca tài tử và sân khấu cải lương phong phú như ngày nay.
Ngày nay, đờn ca tài tử Nam phần không ngừng phát triển cả số lượng và chất lượng, trở thành loại hình sinh hoạt văn hóa tinh thần thường nhật trong đời sống cộng đồng người Việt, không chỉ ở Nam phần, mà lan tỏa cả nước và hải ngoại.
Ngoài nghệ nhân nhạc sư tiền bối Nguyễn Quang Đại (Ba Đợi) được xem như Hậu Tổ của nghệ thuật đờn ca tài tử Nam phần, không thể không nhắc đến công lao đóng góp to lớn và rất quan trọng của hai ông Trần Phong Sắc và Lê Văn Tiếng với quyển sách “Cầm ca tân điệu”.
-----o0o-----
nguyenphuc
nguyenphuc - Sách Cầm ca tân điệu nguyenphuc - ĐỜN CA TÀI TỬ (Nguyễn Tấn Nhì)
Trong 10 loại bài bản cổ truyền của cổ nhạc nam phần, thì loại đầu tiên là Nhứt Lý chỉ có 6 bản Lý mà thôi. Đó là: -Lý con sáo -Lý Giao Duyên -Lý Vọng Phu -Lý Ngựa Ô Nam - Lý Ngựa Ô Bắc -Lý Phước Kiến That's it (chỉ có vậy thôi), Sau 30/4/1975, mấy ông cố tổ ở trong bưng ra, ở trên rừng xuống, không biết mắc chứng gì, bản nào cũng gài thêm chữ Lý vào như Lý Sâm Thương, Lý Chuồn Chuồn, Lý Thập Tình v.v... thật là ngu xuẩn và dốt nát. Biết thì thưa thốt, không biết thì dựa cột mà nghe, đừng có chế tầm bậy không giống ai, không giống con giáp nào! Cũng như bản vọng cổ nhịp 32, mỗi câu chỉ có 32 nhịp (tức là 32 trường canh). Vậy mà ông cố nội Trần Nam Dân viết lời bài ca (vọng cổ) "Đài Hoa Dâng Bác", viết câu 4 dôi ra (dư) tới 2 khuôn, tức là 8 nhịp. Báo hại Út Trà Ôn ca chạy chữ muốn đứt hơi vì thở không kịp, ca xong mồ hôi tuôn xối xả y như tắm hơi. Ai không tin cứ vô google tìm bài ca "Đài Hoa Dâng Bác" nghe thì rõ. Ông cố nội Trận Nam Dân giành hết cái ngu cái dốt trong thiên hạ. Thiệt là bó tay với ông cố nội Trần Nam Dân này! nguyenphuc - Ai là tác giả đích thực của Dạ Cổ Hoài Lang? Ai là tác giả đích thực của Dạ Cổ Hoài Lang? Nguyễn Kiến Thiết 30 tháng 9, 2022
-----o0o----- nguyenphuc - Giao lưu với thành viên THAYDAT từ An Giang Chú thaydat lặn sâu quá hén anh MEM nguyenphuc - Giao lưu với thành viên THAYDAT từ An Giang NHẠC SĨ VĂN CÒN VÀ DÂY NGÂN GIANG Trong nửa thập niên đầu 1930, cây đàn ghi-ta của châu Âu đã đứng khá vững trong dàn nhạc tài tử – cải lương Nam bộ, từ đây theo dòng thời gian, giới nhạc sĩ đã cải tiến và phát triển những hệ thống dây trên cây đàn ghi-ta cổ nhạc Nam bộ như dây Rạch Giá, dây Sài Gòn, dây Tứ Nguyệt… về sau này lại có thêm hệ thống dây tổng hợp (dây Lai), giới chuyên môn gọi là dây tổng hợp vì nó có ưu điểm lớn là đáp ứng được mọi tình huống diễn tấu mà không cần chỉnh, sửa dây trong các hơi điệu Bắc – Hạ – Oán – Quảng… hoặc chuyển cung từ giọng kép qua giọng đào. Ưu điểm này của hệ thống dây tổng hợp được xem là hoàn chỉnh nhất và tưởng như các lớp nhạc sĩ sau đó không cần sáng tạo gì thêm cho hệ thống dây đàn ghi-ta cổ nhạc. Thế nhưng, vẫn có sự đóng góp mới cho cây đàn ghi-ta cổ nhạc. Đó là sự ra đời và trụ rất vững của hệ thống dây Ngân Giang của cố nhạc sĩ Văn Còn (hay Ba Còn – Dĩ An). Nhạc sĩ Nguyễn Văn Còn sinh năm 1924 tại làng Tân Ninh, huyện Thủ Đức, tỉnh Gia Định (nay thuộc xã Tân Đông Hiệp, huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương). Tuổi thiếu niên ông đã yêu thích nhạc tài tử, cải lương và bộc lộ năng khiếu về đàn, tài năng ấy đã nhanh chóng nở hoa với ngón đàn ghi-ta khi ông đặt chân tới đất Sài Gòn. Ông là nhạc sĩ của nhiều đoàn cải lương, vinh quang nhất, thành đạt nhất là những năm tháng đàn cho các đoàn đại ban và các hãng dĩa (những kỷ niệm đẹp nhất trong thời gian phục vụ tại đoàn Thanh Minh – Thanh Nga). Năm 1953, ông tạm nghỉ đàn cải lương, lên Trảng Bom – Long Khánh sống bằng nghề khai thác gỗ rừng. Trong những đêm nhớ sân khấu, nhớ người thân, bè bạn… ông mang cây đàn ghi-ta ra rỉ rả những cung thương, cung oán, từ trong hoàn cảnh này, người nhạc sĩ tha hương đã sáng tạo một hệ thống dây đàn ghi-ta mới… Sau đó trở lại Sài Gòn, ông được mời vào đàn cho bar Lệ Liễu ở Thị Nghè (một điểm kinh doanh giống như quán cổ nhạc hiện nay). Với hệ thống dây “mới chế”, tiếng đàn ghi-ta của ông đã nhanh chóng chinh phục giới mộ điệu. Nhiều người hỏi ông đàn dây gì mà nghe lạ và mùi mẫn quá, ông nói đó là dây Bảo Chánh vì nó ra đời tại sân ga Bảo Chánh – Trảng Bom… Thế là, ông lại được mời đàn cho các đoàn cải lương và các hãng dĩa. Giới mộ điệu bốn phương được nghe dây đàn nầy lần đầu tiên qua bài vọng cổ Nắm Xương Tàn do cố nghệ sĩ Hữu Phước ca. Từ đây, danh tiếng nhạc sĩ Văn Còn càng vang xa hơn trước, nhiều hợp đồng với các hãng dĩa Asia, Hồng Hoa, Hoành Sơn, Việt Nam càng làm cho tiếng đàn tài hoa này được công chúng ái mộ nhiều hơn. Đồng thời, nhiều nhạc sĩ ghi-ta cũng học cách đàn dây Bảo Chánh và phát triển những láy đàn theo tư duy riêng, trong đó, người đàn dây này hay nhất, sáng tạo nhất là cố nhạc sĩ Văn Vỹ. Hệ thống dây tổng hợp đang thông dụng hiện nay (từ thấp lên cao) là Tồn – Xàng – Ho – Xê – Liu. Nhạc sĩ Văn Còn “chế” ra dây Bảo Chánh là Tồn – Xề – Ho – Xư – Xê, tức là từ hệ thống dây tổng hợp ta giữ nguyên dây Tồn (5), nâng cao độ dây Xàng (4) lên Xề, giữ nguyên dây Hò (3), hạ cao độ dây Xê (2) xuống Xư (bán cung xự hay “xự già”) và hạ cao độ dây Liu (1) xuống Xê. Đây là hệ thống dây để đàn bản vọng cổ và các bản hơi nam, oán dành cho giọng nữ (dây đào hay còn gọi là dây hò tư). Đối với giọng nam thì chỉ cần nâng cao độ dây xê (2) của hệ thống dây tổng hợp lên Xư (cung Xang – tức là lấy xang làm hò hay còn gọi là dây kép – hò nhứt). Đặc điểm của hai hệ thống dây này khi đàn lên, nhạc sĩ thường khảy những chữ dây buông (không nhấn) tạo nên những âm mênh mông, dàn trải, hòa quyện với những chữ nhấn, chữ rung độc đáo được chất sâu lắng, mùi mẫn. Năm 1956 nhạc sĩ Ba Còn trở về quê, sống đạm bạc ở Dĩ An bằng việc dạy đàn ca đấp đổi qua ngày. Theo ý kiến của nhạc sĩ Bảy Bá (tức soạn giả Viễn Châu), nhạc sĩ Văn Vỹ đã tìm đến nhà nhạc sĩ Văn Còn để đề nghị đổi tên dây Bảo Chánh thành dây Ngân Giang, vì hệ thống dây này khi đàn lên nghe lâng lâng, bay bổng giọng đàn sáng lên “như những áng mây bàng bạc tựa dãy ngân hà”… cách nhận xét, phân tích này đã làm hài lòng ông Ba Còn. Từ đó mới có tên gọi mới là dây Ngân Giang. Ngân Giang chứ không phải ngân vang. Xung quanh chuyện dây đàn Ngân Giang đã có những ý kiến tranh luận như sau: Có người nói đó là hệ thống dây của cây Hạ-uy-cầm. Ông Ba Còn xác nhận là đúng, nhưng thủ thuật đàn thì rất khác bởi những chữ đờn dây buông hòa quyện với những chữ rung và nhấn tạo ra hiệu ứng độc đáo, dàn trải mà sâu lắng, mùi mẫn. Còn cây đàn Hạ thì sử dụng nhiều chữ vuốt… Dây Ngân Giang đàn cho giọng kép chỉ cần chỉnh cao độ dây số 2, như vậy phải gọi là “bán Ngân Giang”. Tác giả đã không đồng ý, bởi vì chỉnh một dây hay chỉnh cả năm dây thì đó cũng là hệ thống của riêng nó, vẫn bảo đảm hiệu quả diễn tấu. Dây Ngân Giang chỉ đàn được bản vọng cổ và một số bản nhỏ hơn ai, hơi oán, không dễ dàng chuyển cung từ giọng đào qua giọng kép và ngược lại… Điều này chưa khẳng định, vì chính tác giả đã biểu diễn cả những bản hơi bắc, hơi hạ và chuyển cung giọng đào qua giọng kép bằng hệ thống dây này. Ông tin rằng, những lớp nhạc sĩ nối tiếp nếu để tâm nghiên cứu, luyện tập thì sẽ đàn được nhiều hơi – điệu, nhiều cung bậc khác nhau trên hệ thống dây Ngân Giang. (Thiết tưởng, cần được tham khảo thêm với các nhạc sĩ ghi-ta cổ nhạc về những ý này). Nhiều người cho rằng nhạc sĩ Văn Vỹ đàn dây Ngân Giang hay hơn tác giả. Ông Ba Còn lấy làm vui mừng về điều này và lý luận rằng được như vậy mới có giá trị, mới gọi là kế thừa và phát triển, đâu có gì lạ, tài hoa nghệ thuật mỗi người khác nhau, như ông Sáu Nhỏ ở Sa Đéc là tác giả của dây đàn kìm Sa Giang nhưng người học trò của ông là nhạc sĩ Sáu Trinh lại đàn dây Sa Giang hay hơn ông thầy, nhạc sĩ Bảy Điều ở Chợ Búng – Lái Thiêu dù học lại qua mấy buổi cà phê thuốc lá với ông Sáu Trinh, cũng đã biểu diễn đàn kìm dây Sa Giang thật xuất sắc. Nhạc sĩ Thanh Kim là người đầu tiên đàn vọng cổ bằng cây đàn Hạ-uy-di, nhưng người học trò của ông là nhạc sĩ Hoàng Ân lại cũng đàn cây Hạ hay hơn ông thầy. Nhạc sĩ Văn Còn tâm sự: tôi không dám nói Văn Vỹ là học trò, nhưng quả thật tôi là người trực tiếp truyền lại cách lấy dây, cách đàn, rồi với thiên tư, tài nghệ, chú hai Văn Vỹ đã đàn dây Ngân Giang nghe hay hơn tôi, được vậy mới đáng mừng, vì nghệ thuật mà truyền lại cho những người kế tiếp lại càng sút kém thì đó là biểu hiện của sự mai một, hoặc sự sáng tạo nghệ thuật đó không có giá trị. nguyenphuc - Giao lưu với thành viên THAYDAT từ An Giang nguyenphuc - Giao lưu với thành viên THAYDAT từ An Giang Dây Tứ Nguyệt xưa rồi, nó có âm hưởng riêng (vì do cách lên dây) nên bây giờ ít có người đàn nghe đúng âm hưởng đặc thù của nó, mặc dù cũng lên dây giống như vậy. Người đàn dây Rạch Giá và dây Tứ Nguyệt nổi tiếng chính là nhạc sĩ Văn Còn nói trên. Ông để lại nhiều cái "láy" (đờn chầu) vọng cổ mà sau này Năm Cơ, Văn Vĩ, Bảy Bá cũng "học" theo đó. nguyenphuc - Giao lưu với thành viên THAYDAT từ An Giang Dây Tứ Nguyệt là đàn cho đào (nữ) ca trên cây đán guitar lên dây Rạch Giá xưa. Cây đàn guitar phím lõm lên dây Rạch Già đàn cho đào ca gọi là dây Tứ Nguyệt. Cây đàn guitar phím lõm lên dây lai đàn cho đào ca gọi là dây lai đào (gọi tắt là dây đào). Hai dây nầy tương đương với dây hò tư của cây đàn kim. Dây Ngân Giang do nhạc sĩ Văn Còn sáng chế. Đầu tiên có tên là dây Bảo Chánh, nhạc sĩ Văn Vĩ đề nghị với Văn Còn là nên đổi tên dây nầy lại là dây Ngân Giang (chứ không phải ngân vang như nhiều người hiểu sai). Dây Ngân Giang để đàn cho đào ca (gọi là ngân giang đào). Nếu muốn đàn cho kép ca thì vặn trục sửa dây lại (gọi là ngân giang kép, có người gọi là bán ngân giang). nguyenphuc - Giao lưu với thành viên THAYDAT từ An Giang nguyenphuc - Giao lưu với thành viên THAYDAT từ An Giang Chú thaydat trốn dịch kỹ quá, mất tiêu luôn! nguyenphuc - Cuộc đời sầu nữ Út Bạch Lan CUỘC ĐỜI SẦU NỮ ÚT BẠCH LAN …"Dạ kính thưa ông bà cô bác, tụi con mồ côi cha, anh con bị mù, không biết làm gì để sống, xin mượn tiếng nhạc lời ca để giúp vui, mong bà con cô bác mở rộng lòng thương cho xin đồng tiền chén gạo để nuôi dưỡng mẹ già…. Từ là từ phu tướng Bảo kiếm sắc phong lên đàng Vào ra luống trông tin chàng Năm canh mơ màng Em luống trông tin chàng Ôi gan vàng quặn đau í a. Đường dù xa ong bướm Xin đó đừng phụ nghĩa tào khang Đêm luống trông tin bạn Ngày mỏi mòn như đá vọng phu Vọng phu vọng luống trông tin chàng…” Đó là sự khởi nghiệp của nghệ sĩ Út Bạch Lan và danh cầm Văn Vĩ. Có lẽ số trời đã cho họ gặp nhau rồi trở thành anh em kết nghĩa khi Út Bạch Lan 7 tuổi và Văn Vĩ mới lên 9 tuổi. Hai người mẹ bị bỏ rơi, dắt hai đứa trẻ đi lang thang giữa chợ đời, tình cờ gặp nhau rồi kết nghĩa chị em, sống trong một trạm gác cũ bên hông chợ Bình Tây. Mỗi sáng, Út Lùn – tên cô thưở ấy – được các bà chủ sạp sai đi mua thức ăn và được trả công bằng những thứ hàng của sạp như trứng vịt, rau cải, thịt heo, tôm cá… đủ để nuôi sống hai bà mẹ và người anh trai mù lòa. Ban đêm, hai người mẹ ngủ trong lô-cốt, hai anh em ngủ trên sạp hàng. Cô Út kể: Không biết Văn Vĩ biết đàn từ khi nào, nhưng năm lên 9 tuổi thì tiếng đàn của ông như thần sầu quỷ khóc. Đêm đêm trên sạp hàng trong chợ Bình Tây, Văn Vĩ dạy cô ca vọng cổ. Rồi bỗng một ngày, cô rủ Văn Vĩ ra đường hát rong để xin tiền nuôi mẹ. Không ngờ công việc ấy thành công. Khi bài Dạ Cổ Hoài Lang cất lên cùng với tiếng đàn guitar trên hè phố, trời đất như chim sa cá lặn, những kẻ qua đường dừng lại lắng nghe, những đồng tiền xu rơi xuống chiếu. Bỗng một ngày nọ, có một lão già tốt bụng ngồi lại hỏi thăm, xong ông bảo: “Nhà ông ở gần chợ Bàu Sen, phía sau có một chái lá bỏ trống, hai cháu đưa hai người mẹ về đó ở”. Về ở được mấy hôm, ông lại bảo: “Đi hát kiểu nầy nắng mưa cực lắm, để ông mở lớp cho hai cháu dạy đờn ca”. Thế rồi ông viết tấm bảng nhỏ “Tại đây có dạy đờn ca vọng cổ” đóng lên cây sao trên hè phố trước nhà. Chẳng bao lâu, lớp dạy đờn ca vọng cổ của Văn Vĩ và Út Lùn thu nhận gần ba chục học trò cùng lứa tuổi. Một hôm, cô Năm Cần Thơ tìm tới mời hai người lên đài phát thanh Pháp Á để thu bài “Trọng Thủy – Mỵ Châu” rồi được ký luôn một hợp đồng làm việc cho đài. Nghệ sĩ Thành Công nói rằng: “Đã thành ca sĩ của đài rồi thì phải chọn một nghệ danh chớ không thể gọi là Út Lùn được. Bên đài Quốc Gia có ca sĩ Bạch Huệ, hay là ta đặt tên em là Bạch Lan”. Cô Út nói: “Tên Bạch Lan cũng hay, nhưng cho em xin lại chữ Út”. Thế là giọng ca Út Bạch Lan với tiếng đàn Văn Vĩ bắt đầu từ đó. Năm ấy cô mới tròn 11 tuổi. Hỏi vì sao gọi là “Sầu Nữ Út Bạch Lan”, cô nói: “Một cuộc đời buồn, một giọng ca buồn, ca những bài buồn, chuyên đóng những vai buồn và khóc thật với nhân vật của mình. Những năm đầu của thập niên sáu mươi, ký giả kịch trường Trần Tấn Quốc đã bình luận về cô như vậy trong một bài viết có nhan đề “Sầu Nữ Út Bạch Lan”, rồi thành danh cho đến bây giờ. Một cuộc tình buồn Có thể nói, sau thế hệ của nghệ sĩ Phùng Há, thế hệ Út Bạch Lan là những người tiếp tục xây dựng nền móng cho sân khấu cải lương Nam bộ. Những năm cuối của thập niên năm mươi, cặp diễn viên “thinh sắc lưỡng toàn” Út Bạch Lan–Thành Được đã làm rạng rỡ sân khấu Kim Chưởng qua những vỡ tuồng Chưa Tắt Lửa Lòng, Bên Đồi Trăng Cũ, Thuyền Ra Cửa Biển, Áo Trắng Nàng Mộng Trinh, Nửa Bản Tình Ca, Người Đẹp Thành Bát Đa …. Năm 1961, cũng chính Út Bạch Lan–Thành Được đã làm nên thương hiệu của đoàn Thanh Minh Thanh Nga với những tuồng Nửa Đời Hương Phấn, Con Gái Chị Hằng, Tấm Lòng Của Biển, Rồi Ba Mươi Năm Sau, Tiếng Hạc Trong Trăng, Tình Xuân Muôn Tuổi… Thế nhưng, thành công trên kịch trường bao nhiêu thì Út Bạch Lan lại thất bại chốn tình trường bấy nhiêu, thất bại đến cay đắng, nghẹn ngào và khổ đau chất chồng theo năm tháng. Trên sân khấu, cô khóc cho nhân vật của mình đến đầm đìa nước mắt để rồi sau bức màn nhung, cô lại khóc cho thân phận chính mình. Cô với Thành Được có một đám cưới rất huy hoàng trước sự chúc mừng của hàng trăm ký giả, hàng trăm đồng nghiệp do cô Bảy Phùng Há và bà bầu Kim Chưởng tác hôn. Sau đám cưới, hàng chục bài báo ca tụng cuộc tình của hai ngôi sao sân khấu. Nhưng dường như tất cả chỉ có thế rồi kết thúc, để lại cho cô một nỗi đau đời. Cô vừa nuôi mẹ ruột, vừa nuôi mẹ chồng trong một căn nhà chung cư còn Thành Được thì tiếp tục vung gươm trên trận tuyến ái tình như một người chưa hề có vợ. Cô yêu Thành Được vì sự tài hoa, lãng mạn, đa tình và cô khổ cũng chính vì những điều cô yêu ông ấy. Đám cưới chưa được bao lâu thì có một thiếu phụ dẫn đứa con gái lên ba tuổi đến giao cho cô, nói rằng đây là con của anh Thành Được, nhờ cô nuôi giùm một thời gian để tránh những mâu thuẫn gia đình. Cô vừa thương đứa trẻ vô tội, vừa sợ mất chồng nên đã nhận nuôi. Hai năm sau, khi người thiếu phụ ấy vừa đến xin đón đứa con về thì bất ngờ một cô gái trẻ xuất hiện cùng với cái bào thai, cô vừa khóc vừa kể: “Em là Thu Hà, nữ sinh ở Huế. Hôm ấy đoàn ra ngoài Huế hát, em tìm đến xin anh Thành Được tấm hình, ảnh hẹn em ở khách sạn… Rứa là em mang thai. Chừ cha mẹ em đuổi em ra khỏi nhà, em không biết phải làm răng …”. Một lần nữa vì sợ mất chồng, cô Út thuê nhà trọ cho Hà ở, hàng ngày thuê xích lô mang cơm tới cho Hà ăn. Thỉnh thoảng cô tới lui chăm sóc, an ủi Hà cho đến ngày sinh nở. Nhưng sau khi mẹ tròn con vuông, Hà lại van xin cô: “Em còn quá trẻ, không thể sống như thế nầy được, em lạy chị nuôi đứa bé giùm em để em về quê làm lại cuộc đời!”. Không một chút đắn đo, cô Út mang đứa bé về nuôi, làm khai sinh theo họ chồng, đặt tên Châu Văn Dũng. Trước nghĩa cử của cô, nghệ sĩ Thành Được đã không cầm được sự xúc động, cô thì cảm thấy mình hạnh phúc vì đã làm đẹp lòng chồng. Cứ nghĩ, mình không thể sinh con, thôi thì nuôi con chồng bằng tấm lòng người mẹ. Ý nghĩ ấy đã đem đến cho cô một niềm hạnh phúc để xua bớt nỗi đắng cay, nhất là khi thời gian càng trôi qua, cô càng thương yêu Dũng như con ruột của mình. Mấy năm sau, trong một chuyến lưu diễn ở miền tây, tình cờ cô gặp một cô gái tên Trinh ở Gò Công sau khi vãn hát. Thấy một cô gái vừa đẹp vừa sang trọng xin theo mình, cô cứ nghĩ Trinh thích hát cải lương. Nhưng Trinh lại nói: “Em không biết hát, em mê chị và xin theo làm người giúp việc cho chị để được gần chị mà thôi”. Thế là cô nhận Trinh làm em kết nghĩa, đưa về nhà làm quản lý gia đình, chăm sóc hai người mẹ và trông coi Dũng. Rồi bất chợt một ngày, cô phát hiện Trinh đã mang thai. Hỏi mang thai với ai, Trinh chỉ khóc mà không nói. Cô bảo nói ra thì cô tha thứ, còn không nói thì cô tự tử. Cuối cùng thì: “Em mang thai với anh Thành Được!”. Một lần nữa, Út Bạch Lan đứng tên làm mẹ, đặt tên con là Châu Điền Sơn – Điền Sơn là tên nhân vật trong vở cải lương Khi Hoa Anh Đào Nở do Thành Được thủ vai đã làm nên tên tuổi của hai người. Nhưng cũng như lần trước, khi mẹ tròn con vuông thì Trinh lặng lẽ ra đi, để lại lá thư nhờ cô nuôi Điền Sơn để về quê làm lại cuộc đời. Khi hai người chia tay, nghệ sĩ Thành Được vẫn hào hoa phong nhã, vẫn tiếp tục vung gươm trên trận tuyến ái tình như một người chưa hề có vợ, còn cô thì trở thành góa phụ với gánh nặng hai con. Những năm sau đó, cô về đoàn Kim Chung diễn với Hùng Cường, nhưng ngặt nỗi Kim Chung mua lại những tuồng mà trước đây Thành Được diễn với cô. Cứ mỗi lần Hùng Cường xuất hiện thì trong mắt cô lại là Thành Được, cô không diễn nổi, quên tuồng, quên vai và khóc nức nở với thân phận của chính mình. Qua một vòng đời nghiệt ngã, sau năm 75, cô hội ngộ với Thành Được qua vai hai vợ chồng ông Bảy Đờn trong vở Người Ven Đô. Khi bước lên sân khấu, Thành Được xúc động nói một câu ngoài kịch bản: “Bà ngồi xuống đi rồi nghe tôi nói, bà sống với tôi bao nhiêu năm qua bà chưa được hưởng một ngày hạnh phúc, tôi đã làm khổ bà nhiều quá phải không?”. Lúc ấy bỗng dưng cô khóc, khóc thật nhiều dù cảnh ấy không có trong kịch bản. Cuộc đời cô cũng có những đoạn kết như sân khấu, cô bé đầu tiên cô nuôi dưỡng hai năm, sau nầy vẫn gọi cô bằng mẹ và cư xử như một đứa con máu thịt, ruột rà. Những năm tám mươi cô gặp lại Thu Hà giữa Sài Gòn, Hà trở thành goá phụ vì chiến tranh, đau khổ vì hai đứa con trai luôn vào tù ra khám, Dũng vừa hiếu thảo với cô, vừa hết lòng chia sẻ khổ đau với người mẹ ruột. Và, cũng vì bi kịch của người mẹ ruột mà Dũng chết vì một tai họa bất ngờ. Điền Sơn lớn lên được cô cưới vợ và cất nhà cho ra riêng. Rồi trong một chuyến đi lưu diễn sang Mỹ, cô bất ngờ gặp lại bà Trinh, hai chị em ôm nhau vừa mừng vừa tủi. Bà Trinh nhã ý muốn bảo lãnh Sơn qua Mỹ, cô nói: “Ừ, thì về đi rồi chị lo”. Thế là, gần bốn mươi năm nhọc nhằn nuôi dưỡng, giờ lại nhọc nhằn chạy ngược chạy xuôi làm thủ tục để trả Sơn về với cội nguồn. Ngày tiễn Sơn ra sân bay, sau cái vẫy tay mừng cho mẹ con Sơn đoàn tựu, cô lại quay về với sự cô đơn, kết thúc sự ràng buộc mong manh cuối cùng với một cuộc tình buồn. Từ ấy đến nay, cô gởi những năm tháng còn lại của đời mình vào cửa Phật, không phải xuống tóc quy y mà đêm gỏ mõ tụng kinh, ngày chọn sân chùa làm sân khấu, hát trích đoạn những vở tuồng về Phật để lấy tiền trùng tu, sửa chữa chùa chiền. Nếu bảo rằng tu là khổ hạnh thì xem ra, nghệ sĩ Út Bạch Lan đã là bậc chân tu từ thuở thiếu thời. Võ Đắc Danh nguyenphuc - Giao lưu với thành viên THAYDAT từ An Giang nguyenphuc - Giao lưu với thành viên THAYDAT từ An Giang nguyenphuc - Nhạc sư NGUYỄN VĨNH BẢO qua đời Mới cách nay không đầy 1 tuần lễ, NP có xem cái vieo clip của Color Man Bửu Điền thăm và trò chuyện với lão nhạc sư Nguyễn Vĩnh Bảo tại nhà ông xã Mỹ Trà Cao Lãnh. Thấy ông vẫn minh mẩn nói chuyện huyên thiên, ông kể nhiều câu chuyện thời ông còn niên thiếu, ông đàn tranh vẫn mướt, ông ôm đàn kìm, Color Man khen tuổi nầy (103 tuổi) mà lực ngón tay vẫn nhấn nhá nỗi chữ đàn kìm. Buổi thăm vá nói chuyện rất lâu, ông chính tay viết và ký tên tặng sách cho Clor Man và phái đoàn tháp tùng, cử chỉ rất khoan thai. Nhiều câu chuyện ông kể rất vui, thần trí rất minh mẩn, giọng nói rất sung mãn... mới đây thôi, mới mấy ngày thôi mà nay đã ra người thiên cổ... Xin thành kính phân ưu cùng gia đình và thành tâm câu nguyện hương hồn Đại lão nhạc sư Nguyễn Vĩnh Bảo, cây đại thụ của nên cổ nhạc nam phần Việt Nam được an nhàn nơi miền tiên cảnh. nguyenphuc - Giao lưu với thành viên THAYDAT từ An Giang Nickname : nguyenphuc
Tên thật : Nguyễn Phúc
Sinh nhật : 12-31-1985
Email : andynguyenphuc@gmail.com
Nghề nghiệp : Chưa có thông tin !
Sở thích : Chưa có thông tin !
Đến từ : Orange State Tổng số bài viết
Số tin nhắn
Được cám ơn
Chữ ký
Chưa có chữ ký ! Tin nhắn
Hình ảnh
Bài hát
|
Bài hát
|