Nghệ sĩ: Út Hiền | Soạn giả: Phạm Ngọc Tuyền | Ðóng góp: Hoàng Minh | Lượt nghe: 27 | 128.00800536252K
Chia sẻ bài hát
Nhúng diễn đàn

Nghệ danh : Út Hiền
Tên thật : Lê Minh Khánh
Năm sinh : 1940 - 1986
Thành tích nghệ thuật :
Cố Nghệ Sĩ Út Hiền – Một giọng ca còn phảng phất

Nói đến Cố Nghệ sĩ Út Hiền, chỉ những người mộ điệu ở tuồi trung niên trở lên mới có thể cảm nhận được giọng ca của ông. Mặc dù ông về cõi vĩnh hằng đã khá lâu, tuy nhiên, một số băng đĩa vẫn còn lưu lại giọng ca của ông, và ai có dịp nghe lại sẽ không khỏi nao lòng, xao xuyến về một giọng ca truyền cảm, ngọt ngào như còn phảng phất đâu đây…

ĐÔI NÉT VỀ THỜI THANH XUÂN

Cố Nghệ sĩ Út Hiền cùng thời với các nghệ sĩ tài danh như: NS Thanh Hải, Thanh Tú, Thanh Nga, Ngọc Hương, Bạch Tuyết, Diệu Hiền…, và có lẽ ông là một trong những kép chánh hát cặp với NSUT Ngọc Hương ở đoàn Hương Mùa Thu lâu dài nhất.

NS Út Hiền tên thật là Lê Minh Khánh, sinh ra tại Gò Vấp – Gia Định ( 1940 ) trong một gia đình nông dân ( lúc đó Gò Vấp còn là vườn ruộng ); ông mồ côi cha sớm, cùng mẹ sống với nghề làm vườn ruộng, có lúc buôn bán nhỏ. Thiên phú cho Khánh có làn hơi, chất giọng êm dịu, ngọt ngào nên hồi còn là một học sinh đã là hạt nhân nòng cốt trong phong trào văn nghệ học đường, cậu ca cả tân lẫn cổ nhạc. Vì thế mà trong trường Khánh rất được bạn bè mến thích, hơn nữa tính tình cậu hiền hậu, vui vẻ dễ hòa nhập với mọi người.

Về nhà, Khánh được bà con hàng xóm yêu mến, nhiều bạn bè của mẹ cậu khuyến khích cho cậu học ca Cải lương. Điều đó là liều thuốc kích thích thêm lòng đam mê của Khánh để cậu chọn hướng đi cho tương lai. Thế là Khánh “ tìm sư học đạo “, cậu đến lò cổ nhạc của nhạc sĩ Út Trong để học ca Tài tử - Cải lương. Ban đầu, Khánh vừa học phổ thông và học ca, nhưng sau đó, cậu rời hẳn trường phổ thông để chỉ học ca (1956 -1957 ). Thầy Út Trong thấy Khánh tính tình hiền lành, nói năng nhỏ nhẹ, giọng ca êm dịu; giọng “ Đồng pha Thổ “, cách buông hơi, nhả chữ, ngân nga có phần cảnh hưởng vua Vọng cổ Út Trà Ôn lúc bấy giờ, nên thầy Út Trong đặt nghệ danh cho Khánh là Út Hiền.

Sau một thời gian đào tạo tại lò thầy Út Trong, Út Hiền ca chuẩn bài bản, nhịp nhàng, hơi giọng nhiều thể điệu Tải tử - Cải Lương nên thầy Út Trong giới thiệu Út Hiền vào gánh Thanh Minh của bà bầu Thơ. Mặt khác, Út Hiền có kỹ thuật ca ngâm êm dịu, ngọt ngào có phần giống NS Hữu Phước, mà NS Hữu Phước mới rời gánh Thanh Minh về với gánh Kim Thoa, nên Út Hiền về Thanh Minh cũng có nghĩa là kép kế thừa triển vọng.

Lúc đó gánh Thanh Minh chỉ còn NS Năm Nghĩa, Minh Tấn, Út Bạch Lan, Thu Ba là trụ cột, nên bà bầu Thơ thu nhận lực lượng trẻ: Út Hiền, Út Hậu, Quang Nhiều, Mỹ Hiền,… xây dựng một ê –kíp với Thanh Nga. Tuy nhiên, các anh kép trẻ vẫn được coi là kế thừa triển vọng, chứ chưa thật sự hát chánh, chỉ hát những vai nhì thay phiên nhau trong các vở: “ Núi Liễu song Bằng “, “ Lửa hờn “, “ Thiên thần trên thiết mã “… Nhưng đây là “ bộ ba “ kép trẻ đầy triển vọng của gánh Thanh Minh mà khán giả cũng như các ông bầu khách chú ý.

TÊN TUỔI RỰC RỠ Ở HƯƠNG MÙA THU

Bà bầu Thơ là một trong những bầu gánh nổi tiếng của Cải lương. Bà không chỉ có tài quản lý mà còn là người có tầm nhìn xa hiểu rộng với nghề, cũng như kinh nghiệm nuôi dưỡng và sử dụng nhân tài. Do vậy, khi ba kép trẻ: Út Hiền, Út Hậu và Quanh Nhiều mới nổi lên, bà liền ký contract ( hợp đồng ) mỗi anh kép 20 ngàn đồng ( 1958 – 1959 ), trị giá khoảng 20 lượng vàng. Nhưng ngay sau đó, ông bầu Long chủ Công ty Kim Chung gặp riêng ba anh kép này và ký hợp đồng cao hơn, bồi thường cho bà bầu Thơ gấp đôi, tức là 20 ngàn thành 40 ngàn ( ba người là 120 ngàn ).

Như vậy, qua một hợp đồng, bà bầu Thơ đã lời 60 ngàn, nhưng bà không vì tiền mà muốn giữ nhân tài lại cho gánh mình. Cuối cùng, bà không giữ được ba anh kép trẻ này, vì ông bầu Long tìm cách để mua cho bằng được ba anh kép trẻ. Vì thế lúc đó có một thời gian ông bầu Long không được báo chí ủng hộ, không viết bài giới thiệu về Kim Chung và những nghệ sĩ đang nổi ở Kim Chung, công luận phản đối việc ông “ mua đào bán kép “ cũng là một thiệt thòi chung cho Kim Chung một lúc.

Thế rồi đâu cũng vào đó, Út Hiền về Kim Chung 1 hát kép nhì sau NS Thanh Hải. Út Hậu và Quang Nhiều về hát nhì cho Kim Chung 2. Tuy là hát kép nhì, nhưng Út Hiền vẫn đứng bên cạnh Thanh hải, khi cần thiết, hoặc Thanh Hải bận thì Út Hiền có thể đảm nhận việc thay vai cho Thanh Hải; và ông cũng tạo những cảm tình với khán giả thời đó trong nhiều vở ở Kim Chung 1 như: Tiếng trống sang canh; Chiếc lá mùa thu, Trăng lên ngoài cửa ngục, Sầu quan ải, Hai chiều ly biệt, Cô gái sông Đà, Nắng chiều trên sông Dịch, Nửa bản tình ca,…

Có thể nói rằng, NS Út Hiền có những nét thu hút khán giả tiêng, ông có vóc dáng khá lý tưởng với kép mùi, gương mặt sáng và phúc hậu, nhưng khi vào vai diễn thì tùy theo tính cách nhân vật mà ông bộc lộ tâm lý, tính cách khác với tính tình thường ngày của ông, như nhận vật hùng – oai phong, hung dữ và thâm độc… Đặc biệt, NS Út Hiền có làn hơi , chất giọng trời cho , với cái hay khác lạ so với NS Thanh Hải đang là cái bóng lớn trước ông.

Út Hiền có thể ca êm dịu, ca bốc, và hùng hồn, nên khi Thanh Hải ca mùi pha âm hưởng ngâm Tao đàn thì Út Hiền ca lối hùng tráng hay tự sự. Thanh Hải ca hùng và bốc thì Út Hiền ca mùi êm dịu, với kỹ thuật buông hơi nhẹ hàng cho âm giọng vừa buồn - mùi, vừa trữ tình – mướt mát…Út Hiền cũng nhờ kỹ thuật ca ngâm đó mà ông được ông bầu Ba Bản chiếu cố, mời thu nhiều dĩa hát và tên tuổi ông nổi lên lúc đó (1962 – 1963 ).

Vì nhờ ông Ba Bản lăng xê mà NS Út Hiền nổi tiếng. Ông nổi tiếng nhờ giọng ca, chứ không phải vai diễn nào đặc sắc, vì suốt mấy năm vào nghề hầu như NS Út Hiền chỉ hát vai nhì nhiều nhất, thỉnh thoảng mới được chia vai hay thay vai chánh vài lần. Khi ông hết hợp đồng với Kim Chung, ông Ba Bản mời ông về hát cho Thủ Đô, và Út Hiền vẫn hát kép nhì, vì lúc đó Thủ Đô có vua Vọng cổ Út Trà Ôn và vua Tao Đàn Thanh Hải. Lúc đó, NSUT Ngọc Hương cũng hát đào thương cho Thủ Đô, và Thu An là soạn giả thường trực. Sau đó, soạn giả Thu An tách ra thành lập gánh Hương Mùa Thu ( 1964 ), NS Út Hiền mới hát chánh.

NS Út Hiền tạo được tên tuổi rực rỡ nhất lá lúc hát chánh ở Hương Mùa Thu với những vở:Tiếng nhạc rừng xanh, Ảo ảnh Châu Bích Lệ, Người Anh khác mẹ, Con cò trắng, Gánh cỏ song Hàn, Chuyến đò thương, Sài Gòn thác bạc, Tiếng còi sa mạc,… ( hầu hết là kịch bản của soạn giả Thu An ). Nhưng rất tiếc, lúc đó gánh Hương Mùa Thu thường xuyên lưu diễn miền Trung, nên tên tuổi của Út Hiền hầu như gắn liền với sự mộ điệu của khán giả miền Trung hơn là Sài Gòn thời đó. Cứ mỗi lần Hương Mùa Thu hành trình miền Trung là từ nửa năm đến tám tháng một chuyến.

Sau năm 1975, NS Út Hiền về hát cho Nhà hát Trần Hữu Trang vài vở. Ông hát chánh với NS Phượng Liên, nhưng chỉ có một vai chánh khá tiêu biểu là Lục Vân Tiên trong vở cùng tên (1980). Phong cách diễn của ông vẫn còn phong độ, nhưng giọng ca có phần vơi đi âm hưởng thời vàng son như lúc ở Hương Mùa Thu. Theo nhiều nghệ sĩ lớn cho rằng, NS Út Hiền ca hơi giọng không như ngày trước là do ông thường uống rượu khá nhiều, lúc ngẫu hứng với bạn bè, ông thường “ tới bến”, và hậu quả sau đó là ông bị bệnh ung thư gan, ông qua đời ngày 16.06.1986 ( 10.05 năm Bính Dần ) tại bệnh viện Nguyễn Trãi, và được an tang tại nghĩa Trang Chùa Nghệ sĩ ( Gò Vấp )

CÒN ĐÓ MỘT GIỌNG CA PHẢNG PHẤT

Trong sự nghiệp ca diễn của NS Út Hiền còn đọng lại cho đến hôm nay trong băng đĩa là giọng ca. Một giọng ca đậm đà chất ca kịch Cải lương của một thời vàng son như nhiều Nghệ sĩ tài danh tên tuổi khác. Đó là một giọng ca truyền cảm , ngọt ngào, đầy hương vị của Vọng cổ Nam Bộ, và rất thuần chất âm điệu ca ngâm trầm bổng để làn hơi chất giọng ấy mãi mãi phảng phất và thấm đậm trong tình tri âm của giới mộ điệu.

Vốn có hơi giọng “ Đồng pha Thổ “, nên kỹ thuật ca ngâm của Út Hiền có nhiều thuận lợi trong cach xử lý ngân nga, nhấn nhá. Chất đồng mỗi khi ông ca bốc, hay hùng, được bổng lên, nhưng khi nhận vật, hay tình huống bi ai , sầu não thì ông trầm giọng, chất Thổ nổi lên làm cho âm điệu ca ngâm trầm lắng, đượm buồn, mùi mẫn. Mặc dù những tình huống ca hùng hay bốc , nhưng NS Út Hiền đều tiết chế hơi giọng, nên cái bốc của ông không quá rổn rảng như Út Trà Ôn , không vang vang như Thanh Hải, mà chất hùng tráng của hơi giọng Út Hiền có âm hưởng trầm hùng gãy gọn.

NS Út Hiền ca ngâm rất dễ nhận ra là lúc ông ngân – rung giọng, khi dứt những câu ca thì ca từ cuối câu ông nhấn một trọng âm, rồi nín hơi lại một chút mới ngân – kéo dài hơi, đưa hơi gió “hơ…ơ…ơ …..” chậm rãi hơn NSND Út Trà Ôn và NS Thanh Hải, nên âm giọng của ông êm dịu, dặt dìu như phảng phất một mùi hương, mà mùi hương đó chính là cái âm điệu được ngân dài nhỏ dần rồi nhỏ dần như theo chiều gió. Kỹ thuật này được thể hiện lúc Hầu Duy Lễ đối đáp với nàng Ái Cơ ( Ngọc Hương ): “ Tôi muốn nói những gì đã xô tình ta vào ngang trái và vùi chôn ân ái xuống hoang….mồ, để tôi trầm lặng ôm ấp qua tháng đợi ngày chờ. Lòng quằn quại nhớ nhung đau khổ, khi được tin nàng vào hỏa tịnh đăng. Vó ngựa chiều nào không muốn bước, khi nàng rẽ cõi mở bông lau. Trông theo sầu hận dâng cao, vì không nói được một câu chung tình ( Vọng cổ câu 4 trong vở “ Lá của Rừng Xanh “ )

NS Út Hiền còn có kỹ thuật đưa hơi riêng là khi ca Vọng cổ, ông ngân trong lòng câu bằng giọng “ hơ…ơ…” ở cuối một số khuôn nhịp, rồi “ hơ”, khiến người nghe hồi hộp sợ ông ca trễ nhịp, nhưng ông vẫn bình thản, khéo léo dồn văn cho kịp nhịp mà ít ai phát hiện cách dồn văn đó của ông, nếu không muốn nói là ông chẻ nhịp một cách điệu nghệ. Đó cũng là nét riêng của NS Út Hiền trong ca ngâm về kỹ thuật chẻ nhịp, mà trong nghề thường gọi là “ bỏ nhỏ “.

NS Út Hiền đã định vị được làn hơi chất giọng với phong cách ca các thể điệu Nam – Oán theo kỹ thuật Vọng cổ, còn ca Bắc – Quảng thì ông không sử dụng kiểu cách này, mà ông nhấn nhá cường độ ở những nhịp chính hoặc song lang để biểu đạt nội dung ca từ, nghĩa là khi ấy kỹ thuật ngân – rung giọng bị triệt tiêu trong thanh quản, bung ra những âm nổ hay còn gọi là bật hơi.

Các nghệ sĩ tài danh ngày trước, mỗi người một vẻ về làn hơi chất giọng, kỹ thuật ca diễn riêng đã để lại cho nghệ thuật Cải lương một kho tàng phong phú phong cach ca ngâm, một tài sản vô giá cho thế hệ sau lựa chọn để học tập. Và, quy luật “ sinh-lão-bệnh-tử” không ai có thể tồn tại mãi về thể xác, nhưng giá trị nghệ thuật thuộc tinh thần thì vẫn mãi trường tồn, khi thế hệ sau biết quý mến và gìn giữ nó.

ĐỖ DŨNG
Nguồn tin: Báo sân khấu

Hiện tại chưa có ai bình luận !